2013/04/30

Đệ II VNCH thành một chế độ " Diệm không Diệm " !


Ngày 30.04.1975 Miền Nam Việt Nam mất vào tay Cộng Sản Bắc Việt
tại vì 
Ca Tô Giáo La Mã và bè lũ tàn dư đảng Cần Lao Công Giáo giàn dựng: 

Diệm không Diệm



Phan vân Khai
 
LGT - Đệ nhị Cộng hòa thực chất là một chế độ "Diệm Không Diệm" (cụm từ do Robert Shaplen đặt ra), hàm ý ông Diệm đã "đi rồi" nhưng bầy tôi của ông và lực lượng Cần Lao "ác ôn" (chữ của đồng bào miền Trung) đã thành công trong việc trở lại khuynh loát và khống chế để lãnh đạo chính trường miền Nam từ năm 1966-1975.
 
Vì vậy mà khi gọi "miền Nam được lãnh đạo bởi 2 ông Tổng thống Công giáo" là không sai. Và "miền Nam mất vào tay Cộng sản vì Công giáo" là cũng đúng luôn, vì chính trường và chiến trường miền Nam trong 7 năm cuối cùng, kể từ năm 1966, là do thủ hạ Công giáo cũ của ông Diệm ở "thượng tầng lãnh đạo" thao túng.

Trong một chế độ quân phiệt, lại đang thời chiến, quyền hành đương nhiên tập trung vào vị nguyên thủ áo kaki, vì vậy mà căn cước của chế độ Đệ nhị Cọng hòa thật sự nằm ở Dinh Tổng thống (báo chí gọi là "Phủ Đầu Rồng" để đối với "Dinh Thái Thú" là Tòa Đại sứ Mỹ) chứ không phải trên bản Hiến Pháp hoặc các định chế dân cử.

Ai ngồi ở Dinh Tổng thống ? Ai là cận thần đầy quyền lực ra vào Dinh Tổng thống ? Ngoài ông Tổng thống Công giáo "đạo theo" Nguyễn văn Thiệu, bài viết nầy nhằm điểm mặt 10 nhân vật Công giáo khác trong Thượng tầng lãnh đạo của Đệ nhị Cọng hòa, đồng thời cũng nhận diện những cấp chỉ huy quân đội Công giáo cao cấp nào đã thao túng Quân lực VNCH.

Miền Nam kiệt sức vì độc tài, băng hoại vì tham nhũng, khủng hoãng vì mất chính nghĩa, và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời ngày 20-12-1960 tại Tây Ninh… Thế mà ông Diệm lại đẩy cao chính sách kỳ thị Phật giáo, đàn áp các đảng phái Quốc gia, chia rẽ Quân đội thành Cần lao và phi-Cần lao, dung dưởng cho gia đình và thủ hạ tham nhũng … đến nỗi 18 nhân sĩ (mà hầu hết là cựu đồng chí và/hoặc đã từng hợp tác với ông Diệm) phải lên tiếng cảnh cáo ông về tình trạng nguy ngập của miền Nam (Tuyên Ngôn "Caravelle" của tập hợp Tự Do Tiến Bộ ngày 26/4/1960). Cho nên chỉ không đến 10 tháng sau khi Việt Cọng ra đời, ngày 10-10-1961, tình hình an ninh quốc gia đã nguy ngập đến nỗi chính ông Diệm chứ không ai khác đã phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp trên toàn lãnh thổ VNCH (sắc lệnh 209-TTP). Rồi năm tháng sau đó, ngày 31-3-1962, không cứu vãn được tình hình nguy khốn, cũng chính ông Diệm chứ không phải ai khác đã phải gửi thông điệp cho 92 quốc gia trên thế giới yêu cầu ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa chống xâm lăng Cộng Sản [Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, Đại Nam 1969].  Rõ ràng ông Diệm đã hoàn toàn thất bại trong việc đoàn kết dân tộc để cùng Mỹ chống Cọng.  

Thế rồi để cứu vản miền Nam, anh em ông Diệm làm gì ? Thay vì dân chủ hóa bộ máy cầm quyền để tăng hiệu năng chống Cọng, gia đình ông cứ tiếp tục cách cầm quyền độc tài càng lúc càng tàn bạo của ông đến nỗi Quân đội lại phải mạnh mẽ phản ứng lần nữa (vụ ném bom Dinh Độc Lập của 2 phi công Quốc và Cữ ngày 27-2-1962), Phật giáo phải kêu gọi bình đẳng tôn giáo (Nguyện vọng 5 điểm của Phật tử Huế ngày 9-5-1963), đảng phái quốc gia đã phải tố cáo ông quyết liệt hơn (Nhất Linh Nguyễn Trường Tam tử tử ngày 7-7-1963).

2013/04/28

30/4 lại đến rồi, con ơi mau về đi kẻo muộn!

Lời Tác Giả: Nhân mừng thọ tuổi 70 của tôi lại vào dịp nghỉ 30/4, các con tôi đã quyết định cho bố một chuyến đi dối già vào Sài Gòn và Miền Tây Nam Bộ. Tình cờ, tại vùng sông nước cuối cùng của Tổ Quốc, tôi đã được đến thăm nhà má Năm ngay gần bờ sông. Rồi má đã kể cho chúng tôi nghe những tháng năm trước 30/4/1975, ba má đã cưu mang cán bộ và bộ đội như thế nào. Má còn kể về một đứa con nuôi của má nay đang “làm vua” ở Hà Nội, đứa mà ngày xưa má đã suýt chết vì che dấu nó dưới hầm bí mật ra sao. Trời ơi, má Năm nay đã ngoài 90 mà vẫn còn minh mẫn lắm. Má cười, ba má chỉ tội nghèo nhưng nhờ sống thoải mái nên giữ được sức khỏe. Câu chuyện về đứa con nuôi “làm vua” của má nghe thật lạ! Má vừa kể vừa lau nước mắt hình như sau 38 năm biền biệt xa đứa con mà nay má vẫn thương yêu và lo cho tính mạng của nó như hồi còn trong Bưng vậy. Má nói, tình hình này thể nào cũng sẽ có một cuộc 30/4 nữa! Má sợ lúc đó ba má sẽ không còn đủ sức để cưu mang được nó. Rồi bỗng má thở dài: “Ôi sao nó không về trước đi! Cứ dại dột ngồi mãi đó lại như cái ông “Ca” gì đó ở bên Li-bi thì khổ!” Tôi chưa kịp hỏi họ tên đứa con nuôi “làm vua” của má là gì thì đã phải lên ca nô để đi sang vùng khác. Bài viết này chỉ ghi lại những lời thương của má để nhắn nhủ đứa con nuôi một thời ba má đã yêu thương như con ruột, xin được trân trọng sẻ chia cùng quí vị.




30/4 lại đến rồi, con ơi mau về đi kẻo muộn!
(Viết theo lời thương của hai vợ chồng bà má Nam Bộ)
 
Từ ngày 30/4/1975 con chào ba má về thành phố
Ba mươi tám năm trôi qua ba vẫn sống kiếp cơ hàn
Các em con lớn lên nay vẫn chưa có việc làm ổn định
Má che chở con ngày xưa giờ vẫn sống lầm than!

Hồi trong Cứ con thưa, rồi má ba sẽ thay đời đổi kiếp
Độc lập rồi dân sẽ ấm no hơn, cuộc sống sẽ dễ dàng hơn!
Vậy mà nay các đồng chí của con đang làm dân chết khiếp
Khắp nơi nơi đâu cũng thấy người dân đang phỉ nhổ căm hờn!
 
Ngày còn ở trong Bưng má thấy con hiền lành như thế
Mỗi lần về làng gặp du kích con thỏ thẻ với má ba
“Con đi chiến đấu quên thân để cứu dân cứu nước
“Đưa lại Độc Lập, Tự Do cho tổ quốc, quê nhà!”
 
Nay Độc Lập có rồi nhưng Tự Do đâu chưa thấy
Chỉ thấy ai nói hơi trái ý con là con bắt nhốt tù rồi
Người dân muốn nói thật để cho đất nước mau tiến tới
Vì họ đã từng đổ máu xương để giờ con hưởng đó con ơi!
 
Má biết con đã sớm phải vô Bưng nên học hành lởm khởm
Lẽ ra nay làm vua, con phải biết khiêm tốn lắng nghe dân
Dân thật thà góp ý giúp con thì con kêu “bầy phản động”
Còn mấy đứa nịnh hót tâng bốc thì con lại chơi thân

Sao dưới triều đại con, người có tài thì con không trọng dụng?
Chỉ bổ nhiệm một lũ cúi luồn bằng cấp có, kiến thức không
Làm đất nước lộn tùng phèo người mù lại đi dắt người sáng
Người tâm huyết tài năng lại phải về cày ruộng nuôi tôm!

Mà nuôi tôm, các đồng chí của con cũng không cho yên sống
Anh em Đoàn Văn Vươn hai mươi năm trời đã lấn biển quai đê
Xây đầm nuôi tôm bằng chính sức mình làm giàu cho đất nước[1]
Các bạn con lại dùng bộ đội công an định cưỡng cướp mang về!

Má ba chưa thấy lịch sử nước nhà có thời đại nào như thế
Mồm “lấy dân làm gốc” tay lại cướp bóc và đàn áp dân lành
Chuyện ba ngàn công an đánh một ngàn nông dân năm ngoái[2]
Cướp đất Văn Giang xây “thiên đường” là một “trang sử liệt oanh”

Dân đóng thuế được bao nhiêu thì bọn nịnh thần vơ vét hết
Rồi cố tình đẻ thêm ra chước quỷ mưu ma để trấn lột tiền dân
Hết bày đặt nào thuế xăng xe, thuế đường bộ, thuế ô tô xe máy...
Bệnh viện nằm bốn người một giường cũng phải nộp thuế thân!

Ba má muốn gặp tận mặt con để nói cho con nghe sự thật
Nhưng từ ngày con làm quan rồi làm vua đâu ló mặt về thôn
Má ba đã ngoại cửu tuần rồi không thể ra thăm con được nữa
Sợ ít nữa dân phẫn uất lên, má ba không còn cơ hội để cứu con!

Ba ruột con danh tính là gì và ở đâu má ba không được biết
Chỉ thấy má đẻ con một mình lam lũ nuôi con nên má ba thương
Có phải “ông ấy” nhận ra con không mà nâng con lên nhanh thế?
Làm vua mà không được học hành sao con có thể đảm đương?

Ba má đã sống hơn nửa đời người trước 30 tháng Tư nên hiểu
Thời trước người ta biết trọng nhân tài nên xã hội văn minh
Người giàu biết thương yêu người nghèo, tạo việc làm cho họ
Chứ không như bọn tư bản đỏ bây giờ làm dân ghét, dân kinh
 
Thời trước Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa là của ta tất cả
Ngư dân ta đánh cá ngoài khơi có ai dám trấn giết cướp tàu
Thời nay ngày nào Hán tặc cũng bắn giết ngư dân trên biển
Mà ba má đã bao giờ được nghe con lên tiếng cứu dân đâu?
 
Má ba cùng đồng bào đã 20 năm cưu mang con trong lửa đạn
Hôm con chui xuống hầm cạnh bồn cầu, má cứ phải “ngồi” coi
Nếu không có nhân dân hi sinh thì 30/4 các con sao thắng được
Mà nay các đồng chí của con đối xử với dân tàn ác thế con ơi!
 
Năm thứ ba mươi tám 30/4 lại đến rồi, con ơi mau về đi kẻo muộn!
Má không còn sức “ngồi” bồn cầu để coi con chui xuống đó nữa đâu
Ngày nhân dân vùng lên lật đổ con nay chỉ là một chiều một sớm
Con về đi! Đừng như bố con Gaddafi bị dân cắt cổ, má ba đau!


Sài Gòn, 28/4/1013
Ts. Đặng Huy Văn

 
[1]- Ngày 5/1/2012, chính quyền huyện Tiên Lãng, Hải Phòng đã dùng hơn 100 công an và bộ đội có trang bị vũ khí đến đập phá nhà và định cướp trắng đầm tôm của gia đình anh em ông Đoàn Văn Vươn tại xã Vinh Quang, Tiên Lãng một cách trái pháp luật.
 
[2]- Ngày 24/4/2012, hơn ba ngàn công an và đầu gấu được UBND huyện Văn Giang, Hưng Yên thuê để đàn áp cuộc biểu tình của hơn một ngàn nông dân tại xã Xuân Quan, Văn Giang để giữ ruộng đất và mồ mả tổ tiên của bà con đang bị giải tỏa mặt bằng để xây dựng “Thiên đường Ecopark”của một chủ đầu tư giấu mặt. Cuộc biểu tình của bà con Văn Giang đã bị đàn áp dã man trong đó có rất nhiều người dân và hai phóng viên VOV đã bị đánh trọng thương.


Khai Dân TríĐặng Huy Văn

2013/04/27

30 Tháng Tư giữa Thiên Đường Ecopark

Lời Tác Giả: Tôi đã về xã Xuân Quan, huyện Văn Giang vào sáng nay và gặp được một người cựu chiến binh của Đại Đoàn Quân Tiên Phong năm xưa kể lại cho nghe cuộc biểu tình thất bại của hơn một ngàn nông dân của huyện Văn Giang tại đây. Họ đã bị thu hồi đất trái pháp luật trước sức mạnh của hàng ngàn công an, đầu gấu cùng máy ủi, máy xúc nhằm phá hoại hoa màu trên cánh đồng để tiếp tục triển khai dự án “Thiên đường xanh Ecopark” cho những “thiên thần đỏ có tiền” về đây ở để được hưởng thành quả 30 Tháng Tư 1975 mĩ mãn hơn! Nhưng những người nông dân ở đây từ nay không còn đất để làm ăn sinh sống thì “Khu Đô Thị Sinh Thái” này phải chăng là một Khu Đô Thị Chết, trách gì người ta phải chọn dịp kỉ niệm 30 Tháng Tư để cưỡng chế! Thật là đau thương!




30 Tháng Tư giữa Thiên Đường Ecopark

(Kính viếng hương hồn Thiên Đường bỏ hoang Ecopark)

30 Tháng Tư
Ám ảnh tôi
Những con tàu
Vật vờ trôi trên biển
Có cả mẹ già
Cả con thơ
Giữa bão tố
Chẳng biết đâu bờ bến
Những ngọn sóng hãi hùng
Đã trùm lên những con tàu chìm nghỉm
Giữa mênh mông
Sóng cả Thái Bình Dương!

Họ là những người dân
Đi tìm bến tự do
Mà rời bỏ quê hương
Kể từ sau 30 Tháng Tư
Năm Bảy Nhăm-Ất Mão
Hàng chục vạn người chết mất cả xác thân
Giữa biển khơi giông bão!

Ôi! Quê hương
Những năm dài tranh đấu
Máu hàng triệu người
Nhuộn đỏ dãy Trường Sơn!
Mà hôm nay
Khi “giải phóng” quê hương
Dân trở lại kiếp cày thuê cuốc mướn!
Ngay tại chính cánh đồng
Trên đúng cùng thửa ruộng
Của cha ông truyền lại tự ngàn đời
Bởi từ nay “nhà nước” quản lý rồi!
Khi “người ta” cần đất
Dân phải giao giả ruộng!
Biểu tình chống lại ư?
Sẽ tức khắc có hàng ngàn công an, đầu gấu xuống
Xử lí ngay không một phút chần chừ
Các vị không tin ư?
Xin mời đến xã Xuân Quan mà hỏi thực hư!
Một người cựu chiên binh
Của Đại Đoàn Quân Tiên Phong(1)
Từng vào sinh ra tử
Nay cũng bị
Dồn đến chân tường
Với dân oan hôm đó
Nhằm thu hồi đất
Xây Ecopark thiên đường!

30 Tháng Tư đang về
Trên mảnh đất Văn Giang(2)
Nơi sẽ mọc lên
Thiên đường xanh Ecopark”
Không phải trong mơ
Mà “thiên đường” có thật
Của các “cháu ngoan năm xưa của cụ Hồ”
Đã có công trong chiến tranh dẹp chế độ tự do
Trên nửa nước bằng núi xương sông máu!
Rồi làm nên 30 Tháng Tư giữa Miền Nam yêu dấu
Để về xây Ecopark hôm nay!

Xin kính lạy Đất Trời!
Lạy Phật Tổ Như Lai!
Dân cày Việt Nam đến bao giờ có ruộng?
Đến bao giờ chính quyền thôi cưỡng ép dân oan uổng?
Đến bao giờ đất nước có tự do?
Hiện hữu trên đời chứ không phải trong mơ!

Đến bao giờ dân vượt biển năm xưa
Được tự do về quê hương bản quán?
Đến bao giờ anh em thôi thù hận?
Để 30 Tháng Tư thành ngày của yêu thương

Cho em thơ được sống giữa Thiên Đường
Không phải nằm mơ mà Thiên Đường đích thực
Xin Mẹ Âu Cơ hãy chỉ hướng đường con đi phía trước
Để đưa Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền
Về Tổ Quốc quê hương!


Hà Nội, 30/4/2012
Đặng Huy Văn


(1) Đại Đoàn Quân Tiên Phong ra đời ngày 28/8/1949 tại Đồn Đu, Thái Nguyên, sau này có tên là Sư Đoàn 308 tiếp quản Hà Nội ngày 10/10/1954. Năm 1975, hậu bị ở Miền Bắc.

(2) Văn Giang là một huyện của tỉnh Hưng Yên, ngay sát nách Hà Nội, nơi vừa xẩy ra cuộc biểu tình ngày 24/4/2012 của một ngàn nông dân tại xã Xuân Quan chống lại việc bị chính quyền thu hồi đất trái luật để xây dựng “Thiên đường xanh Ecopark” cho Công ty cổ phần phát triển và đầu tư Việt Hưng trước hàng ngàn công an và đầu gấu được chính quyền huyện Văn Giang điều động để cưỡng chế giải phóng mặt bằng đất ruộng của 3 xã Xuân Quan, Phụng Công và Cửu Cao (Theo Báo NGƯỜI CAO TUỔI VN).



Khai Dân TríĐặng Huy Văn

2013/04/26

The Secret of the Seven Sisters

A four-part series that reveals how a secret pact formed a cartel that controls the world's oil.

On August 28, 1928, in the Scottish highlands, began the secret story of oil.

Three men had an appointment at Achnacarry Castle - a Dutchman, an American and an Englishman.

The Dutchman was Henry Deterding, a man nicknamed the Napoleon of Oil, having exploited a find in Sumatra. He joined forces with a rich ship owner and painted Shell salesman and together the two men founded Royal Dutch Shell.

The American was Walter C. Teagle and he represents the Standard Oil Company, founded by John D. Rockefeller at the age of 31 - the future Exxon. Oil wells, transport, refining and distribution of oil - everything is controlled by Standard oil.

The Englishman, Sir John Cadman, was the director of the Anglo-Persian oil Company, soon to become BP. On the initiative of a young Winston Churchill, the British government had taken a stake in BP and the Royal Navy switched its fuel from coal to oil. With fuel-hungry ships, planes and tanks, oil became "the blood of every battle".

The new automobile industry was developing fast, and the Ford T was selling by the million. The world was thirsty for oil, and companies were waging a merciless contest but the competition was making the market unstable.

That August night, the three men decided to stop fighting and to start sharing out the world's oil. Their vision was that production zones, transport costs, sales prices - everything would be agreed and shared. And so began a great cartel, whose purpose was to dominate the world, by controlling its oil.

Four others soon joined them, and they came to be known as the Seven Sisters - the biggest oil companies in the world.

Throughout the region's modern history, since the discovery of oil, the Seven Sisters have sought to control the balance of power.

They have supported monarchies in Iran and Saudi Arabia, opposed the creation of OPEC, profiting from the Iran-Iraq war, leading to the ultimate destruction of Saddam Hussein and Iraq.

The Seven Sisters were always present, and almost always came out on top.

Since that notorious meeting at Achnacarry Castle on August 28, 1928, they have never ceased to plot, to plan and to scheme.

In the Caucasus, the US and Russia are vying for control of the region. The great oil game is in full swing. Whoever controls the Caucasus and its roads, controls the transport of oil from the Caspian Sea.

Tbilisi, Erevan and Baku - the three capitals of the Caucasus. The oil from Baku in Azerbaijan is a strategic priority
for all the major companies.

From the fortunes of the Nobel family to the Russian revolution, to World War II, oil from the Caucasus and the Caspian has played a central role. Lenin fixated on conquering the Azeri capital Baku for its oil, as did Stalin and Hitler.

On his birthday in 1941, Adolf Hitler received a chocolate and cream birthday cake, representing a map. He chose the slice with Baku on it.

On June 22nd 1941, the armies of the Third Reich invaded Russia. The crucial battle of Stalingrad was the key to the road to the Caucasus and Baku's oil, and would decide the outcome of the war.

Stalin told his troops: "Fighting for one's oil is fighting for one's freedom."

After World War II, President Nikita Krushchev would build the Soviet empire and its Red Army with revenues from the USSR's new-found oil reserves.

Decades later, oil would bring that empire to its knees, when Saudi Arabia and the US would conspire to open up the oil taps, flood the markets, and bring the price of oil down to $13 per barrel. Russian oligarchs would take up the oil mantle, only to be put in their place by their president, Vladimir Putin, who knows that oil is power.

The US and Putin's Russia would prop up despots, and exploit regional conflicts to maintain a grip on the oil fields of the Caucasus and the Caspian.

But they would not have counted on the rise of a new, strong and hungry China, with an almost limitless appetite for oil and energy. Today, the US, Russia and China contest the control of the former USSR's fossil fuel reserves, and the supply routes. A three-handed match, with the world as spectators, between three ferocious beasts -- The American eagle, the Russian bear, and the Chinese dragon.

Episode 1: Desert Storms

Episode 2: The Black El Dorado

Episode 3: The Dancing Bear

Episode 4: A Time for Lies

Khai Dân TríAl Jazeera

2013/04/25

30 tháng Tư ơi, Hồn Nước sẽ về đâu?

Lời Tác Giả: Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày 30 tháng Tư, ngày mà cách đây 38 năm tôi đã nháy cẩng lên như một thằng điên vì vui sướng. Vì tôi tưởng kể từ nay, thanh niên Việt Nam sẽ không còn phải chém giết lẫn nhau nữa, bởi cuộc nội chiến tàn khốc nhất lịch sử dân tộc Việt Nam làm chết tới gần 5 triệu người đã kết thúc! Nhưng thật đáng thương sau ngày 30/4/1975 vẫn còn thù hận, hơn 1 triệu cán binh cộng hòa phải đi tù và chết đói trong lao tù hơn 16 vạn người, khoảng 60 vạn thuyền nhân bị chết chìm mất xác trên các đại dương khi vượt biển đi tỵ nạn và có tới 3 triệu người Việt phải bỏ nước ra đi không hẹn ngày trở lại. Đó là một tấn thảm kịch bi đát nhất trong lịch sử Việt Nam!
 
Vậy, ai là những kẻ đã góp phần gây ra tấn thảm kịch đó? Bài viết này sẽ nêu ra lời giải đáp một cách chủ quan của cá nhân tôi, chưa chắc đã phản ảnh trung thực tính khách quan của lịch sử, xin được trân trọng gửi tới quí vị độc giả để chúng ta cùng trao đổi và tìm ra được câu trả lời thích hợp nhất để lịch sử nước nhà mai sau không còn phải lặp lại.  
 
30 tháng Tư ơi, Hồn Nước sẽ về đâu?

(Kính viếng Hương Hồn 5 triệu đồng bào đã ngã xuống)
 
Nếu Mao đồng chí không thương Đảng CS Việt Nam
Thì sao 1930, lại cưu mang một “đứa trẻ sinh nằm trên cỏ”?[1]
Rồi nuôi nấng “đứa trẻ” đó lớn lên thành đứa con ngoan thực sự
Biết răm rắp vâng lời Mao mang theo “con đường vô sản” tới trời Nam
 
Nếu Mao đồng chí không yêu các nhà lãnh đạo Việt Nam
Thì sao lại giúp đỡ và dìu dắt chủ tịch Hồ Chí Minh “vĩ đại”?
Còn gả vợ cho người để thành con rể nước Trung Hoa mãi mãi[2]
Và trọn đời giữ gìn “Tình hữu nghị láng giềng như gắn bó môi răng!”
 
Nếu Mao đồng chí không hết lòng trong cuộc kháng Pháp 9 năm
Thì chắc gì đã có “Chiến Thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng” ngày ấy?
Nhưng lại phải đau đớn ký HĐ Genève cắt nước Việt ra hai Miền tê tái
Khiến nhiều gia đình Việt Nam phải chia ly trong buồn tủi hờn căm!
 
Nếu Mao đồng chí không dạy dỗ Hồ Viết Thắng và hàng ngàn cán bộ
Phải tiến hành CCRĐ thế nào dưới sự chỉ huy của cố vấn Trung Hoa
Thì làm sao chỉ trong hai năm có thể giết chết hai vạn người vô tội
Đã có công xây dựng nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa?

Nếu Mao đồng chí không cho ra bản “Tuyên bố về lãnh hải TQ” vào 4/9/1958
Thì Phạm Văn Đồng đâu dám coi Hoàng-Trường Sa không là của Việt Nam
Bằng một bức Công Hàm gửi Chính Phủ TQ ngày 14 tháng 9 năm 1958?[3]
Để giờ đây phần xác đã yên giấc ngàn thu mà phần hồn vẫn băn khoăn!

Nếu Mao đồng chí không khuyên đảng bắt nông dân góp ruộng vào hợp tác
Thì làm sao đảng có hàng triệu thanh niên vào “giải phóng” Miền Nam?
Ngày đó nếu ai đào ngũ không vào chiến trường thì cả nhà chết đói
Vì đâu còn trâu bò ruộng đất kênh mương để có thể tự làm ăn!

Nếu Mao đồng chí không giúp Miền Bắc đem quân vào đánh Miền Nam
Thì chính phủ Hoa Kỳ lúc đó chắc gì đã muốn ồ ạt đổ quân vào Đà Nẵng[4]
Để Mao yên tâm triệt hạ các đối thủ chính trị trong CMVH mang danh vô sản
Mồm hô “Quyết đánh Mỹ đến người Việt cuối cùng!” mưu hủy diệt Việt Nam!

Nếu Mao đồng chí không cung cấp vũ khí cho Miền Bắc phá hủy VNCH[5]
Thì ngày 19/1/1974, sao quân Tàu có thể cưỡng chiếm được Hoàng Sa?
Để ngày 30/4/1975 thống nhất non sông lại bị mất đi phần Biển Đảo
Lãnh thổ thiêng liêng đã được giữ gìn từ nhiều thế hệ của ông cha!

Phải chi việc bắt 1 triệu cán binh VNCH vào các nhà tù cũng là Mao gợi ý?
Để người Việt tiếp tục xéo dày nhau cho thỏa lòng lang dạ thú của Mao
Vì gần 5 triệu người Việt chết trong nội chiến đối với Mao còn ít quá
Mao muốn dân Việt bị tiêu diệt nhiều hơn để có chỗ cho dân Tàu!

Ngày 9 tháng 9 năm 1976, Mao đồng chí qua đời thì cháu con Mao khôn lớn[6]
Các cấp lãnh đạo Việt Nam lại tiếp tục trả “ơn sâu, nghĩa nặng” bố con Mao
Bằng đất rừng, Mái Nhà Đông Dương, Biển Đông...để làm theo “Lời Bác”
Dưới sự dẫn dắt của kẻ thân Mao, 30 tháng Tư ơi Hồn Nước sẽ về đâu?

Ngạn ngữ có câu “Muốn biết ông là ai thì phải xem ông kết bạn với người nào?”
Bạn ông là một kẻ bạo tàn lớn nhất thế kỷ 20, hơn cả Tần Thủy Hoàng tái thế!
Ôi một ngàn năm Bắc Thuộc đủ rồi! Đồng bào hãy nhanh chân lên kẻo trễ!
Cùng tâm linh 5 triệu hồn oan, quyết giữ gìn Hồn Nước tới nghìn sau!


Hà Nội, 24/4/2013
Ts. Đặng Huy Văn


GHI CHÚ:
 
[1]- Năm 1960, xuất phát từ nguồn tin nói: Đảng cộng sản Việt Nam đã được thành lập ngày 3/2/1930 tại một sân bóng của Hồng Công Trung Quốc, nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Ba mươi năm đời ta có đảng” trong đó có câu: “Như đứa trẻ sinh nằm trên cỏ”.
[2]- Tăng Tuyết Minh – Wikipedia tiếng Việt
vi.wikipedia.org/wiki/Tăng_Tuyết_Minh
[3]-  Công Hàm Bán Nước do Phạm Văn Ðồng ký ngày 14/9/1958
conghambannuoc.tripod.com/
[4]-  Ngày 8 và 9/3/1965, hai trung đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đầu tiên đã đổ bộ vào Đà Nẵng chính thức mở đầu cho cuộc can thiệp quân sự của Mỹ tại Việt Nam.
[5]- Những chữ viết tắt- “VNCH”: Việt Nam Cộng Hòa. “CMVH”: Cách mạng Văn Hóa. “HĐ”: Hiệp Định. “CCRĐ”: Cải cách ruộng đất.
[6]-  Mao Trạch Đông – Wikipedia tiếng Việt
vi.wikipedia.org/wiki/Mao_Trạch_Đông



Khai Dân TríĐặng Huy Văn

2013/04/23

Ai là "Việt Kiều"?


Nguyên Giao

“Khúc ruột ở xa ngàn dặm”

Trên truyền thông Việt ngữ, càng ngày hai chữ “Việt kiều” càng thấy xuất hiện nhiều hơn. Chúng ta nên hiểu và sử dụng danh xưng này như thế nào để được chỉnh về chính trị (politically correct)?

“Kiều” có nghĩa là ở hải ngoại, được dùng làm tĩnh tự cho các danh tự, như: “Kiều dân” là người dân sống ở bên ngoài ranh giới quốc gia mà người ấy được sinh ra (native land); “Kiều hối” là tiền bạc ở ngoại quốc; “Kiều vận” là vận động dân mình ở ngoại quốc.

Chữ “kiều” đã được dùng trong các chữ “Pháp kiều”, “Hoa kiều”, “Mỹ kiều”, và “Việt kiều yêu nước”. Dười thời Đệ Nhất Cộng Hoà, người Hoa sinh sống ở nam Việt Nam được chính thức gọi là Hoa kiều. Suốt trong cuộc chiến Bắc-Nam Việt Nam (1954-1975), nhà cầm quyền Hà Nội gọi các thành phần người Việt ở hải ngoại có những sinh hoạt phản chiến, hỗ trợ, hay có lợi cho cộng sản Việt Nam là “Việt kiều yêu nước”.

Tương tự, người Thái sinh sống ở ngoài Thái Lan là Thái kiều, và người Phi không ở nước Phi là Phi kiều. Trong hoàn cảnh chính trị quốc gia bình thường, liên hệ giữa chính phủ một nước với kiều dân của họ tốt đẹp, và không có vấn đề gì làm hai bên phải bận tâm: Khi những viên chức của chính phủ một quốc gia xuất ngoại công cán ở nơi xa có kiều dân của họ sinh sống, các viên chức cao cấp thuờng được kiều dân tiếp đón tưng bừng như các hình ảnh thấy trên các bản tin thời sự. Ngược lại, khi các kiều dân có dịp về thăm nơi “chôn rau, cắt rốn” của mình, họ thường được đối xử bình thường – có khi còn được biệt đãi – bởi các viên chức chính phủ, nhất là ở các cơ quan liên hệ đến hải quan, du lịch, hay thông hành.

Chữ “kiều” sẽ trở nên khúc mắc hơn khi một quốc gia bị các biến cố chính trị đưa đến các cuộc di dân có khi là ngoài ý muốn tự nguyện của một số các công dân ra khỏi biên giới quốc gia, hay khi quốc gia bị chia thành các chế độ chính trị đối nghịch. Thí dụ: Hiện có hai nước Hàn quốc: Bắc Hàn, và Nam Hàn, cùng là hội viên của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, nếu xét đến liên hệ giữa các Hàn kiều, và hai chính phủ đối nghịch chính trị, cũng như khác biệt về luật lệ quốc tịch, và di dân của Nam và Bắc Hàn, cần phải phân biệt có hai loại Hàn kiều: Nam Hàn kiều, và Bắc Hàn kiều.

Cũng tương tự như Hàn kiều, trường hợp các Hoa kiều của Trung Cộng, và Đài Loan cũng cần phải được phân biệt cho rõ ràng, để có thể tránh được những hiểu nhầm vô tình, hay “vơ đũa cả nắm”, có thể đưa đến những hậu quả chết người: Một Nam Hàn kiều trên đất Mỹ vi phạm những điều kiện của luật lệ di trú nếu bị trục xuất về Bắc Hàn thì khác gì như bị án tử hình?

So với các quốc gia trên thế giới, Việt Nam là một trường hợp khúc mắc liên hệ đến hai chữ “Việt kiều”. Lý do là vì Việt Nam là quốc gia độc nhất trên thế giới có tỉ lệ dân Việt ở hải ngoại tương đối cao (khoảng 3 triệu, so với 84 triệu trong nước), mà hầu hết thành phần này lại là nạn nhân của chính phủ đang cầm quyền ở Việt Nam, hậu quả của biến cố 1975. Vốn là tị nạn chính trị chế độ cộng sản, người Việt ở hải ngoại luôn luôn tìm mọi cách để biểu lộ cho người dân trong nước, dân bản xứ, cũng như cộng đồng thế giới biết họ không chấp nhận những ngưới cầm quyền ở Hà Nội là đại diện chính thức, và hợp pháp cho quốc gia Việt Nam. Các viên chức của Hà Nội khi đi công cán ở hải ngoại thường bị các kiều dân “dàn chào”, biểu tình phản đối, làm cho bĩ mặt trước truyền thông quốc tế. Ngược lại, khi về thăm Việt Nam, người Việt ở hải ngoại thường bị các viên chức có thẩm quyền ở hải quan, liên hệ đến thông hành, và du lịch cố ý ấn định giá vé, lệ phí cao hơn gấp hai, gấp ba so với cho người trong nước, làm khó khăn để bòn tiền trà nước, để ý bằng con mắt nghi ngờ, cùng các biện pháp kỳ thị khác.

Trong thời chiến, trước khi chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội đã dùng một số “Việt kiều yêu nước” để tuyên truyền cho chiêu bài “Chống Mỹ, cứu nước” của họ. Thật ra, “Việt kiều yêu nước” chỉ là “người Việt thân cộng ở hải ngoại”.

Ngày nay, Hà Nội lại muốn tiếp tục “mập mờ đánh lận con đen” muốn lợi dụng nguồn tài nguyên (như ngoại tệ, và kiến thức kỹ thuật) càng ngày càng gia tăng của người Việt ở hải ngoại để duy trì chế độ. Họ dùng chữ “Việt kiều” để gọi chung tất cả 3 triệu người Việt ở hải ngoại, với tà ý “xập xí, xập ngầu” với đồng bào ở trong nước, cũng như cộng đồng thế giới rằng 3 triệu người Việt ở hải ngoại vẫn là “Khúc ruột ở xa ngàn dặm”, ám chỉ họ được sự công nhận, và hỗ trợ của 3 triệu “Việt kiều”. Những ai còn nghi ngờ ý đồ của Hà Nội xin hãy tìm đọc kỹ nội dung bộ luật hiện hành về quốc tịch của Hà Nội để thấy rằng: Cộng sản Hà Nội không nhượng bộ một ly nào đối với người Việt trong cũng như ngoài nước. Bộ luật quốc tịch Việt Nam cộng sản vẫn khăng khăng qui định: Người Việt nào chưa được giấy phép của Chủ tịch Nước từ bỏ quốc tịch Việt Nam vẫn là công dân Việt Nam, dù đã vào quốc tịch bất cứ nước nào. Hà Nội không chấp nhận song tịch, mà xác quyết người Việt có quốc tịch nước ngoài vẫn là người còn quốc tịch Việt Nam, nên vẫn bị luật lệ Việt Nam chi phối. Hà Nội còn triệt để hơn nữa khi áp dụng luật này cho các con cháu thế hệ thứ hai sanh tại ngoại quốc của người Việt ở hải ngoại: Những thiếu niên Việt sanh tại Mỹ, Pháp, Úc, v.v., con cái của cha mẹ có quốc tịch của các nước ấy, vẫn bị nhận vơ là “con dân” của cộng sản Hà Nội! Trên thế giới thử hỏi có chính phủ nào vừa vô lý, vừa trâng tráo, và nham hiểm như vậy không?

Trong khi đó, mỗi khi người Việt ở hải ngoại có vấn đề với các cơ quan thẩm quyền sở tại – thí dụ như về giấy tờ cư trú, di dân, hay mỗi khi bị dân bản xứ kỳ thị ở các quốc gia Đông Âu – các viên chức ở sứ quán của Hà Nội lại hoặc bất lực, hoặc cố ý quay mặt làm lơ, không hành xử nhiệm vụ thuộc phạm vi công vụ của mình.

Để tránh sự lợi dụng của nhà cầm quyền Hà Nội, cũng như những thành phần thân cộng ở hải ngoại, chúng ta, nhất là những người Việt đã có quốc tịch của nước sở tại (như Pháp, Đức, Anh, Úc, Mỹ), nên minh xác rõ ràng rằng chúng ta là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt, cựu tị nạn cộng sản (nếu thích hợp)”, chứ không phải là “Việt kiều” gì hết! Con em của chúng ta được sinh ra ở hải ngoại là “người Pháp (hay Đức, hoặc Anh, hay Úc, hoặc Mỹ) gốc Việt”, tự động có quốc tịch, và là công dân của nước mà chúng đã được sanh ra. Không kể một thiểu số thân cộng, hầu hết người Việt ở hải ngoại không những không là “Việt kiều”, mà còn công khai cương quyết chống lại các kế hoạch kiều vận của bạo quyền Hà Nội, đồng thời tiếp tay hỗ trợ cho các chiến sĩ tranh đấu cho tự do, nhân quyền, và dân chủ ở trong nước.

Cũng đừng quên rằng, vì có quốc tịch của nước mà chúng ta sinh sống, đổi lại những quyền lợi đáng kể mà tất cả các công dân của nước đó đều được hưởng hàng ngày, chúng ta có bổn phận thực thi những nghĩa vụ công dân như đóng thuế, đi bầu, tôn trọng hiến pháp cũng như luật lệ, và phục vụ quyền lợi dân tộc và quốc gia sở tại.

Tóm lại, vô tình chấp nhận không đúng nghiã những từ ngữ Hà Nội láu cá sử dụng – như hai chữ “Việt kiều” – chẳng khác gì như để mình rơi vào bẫy xập tuyên truyền của bạo quyền CS gian manh./.


Nguyên Giao

Khai Dân TríNguyên Giao

2013/04/21

MUÔN ĐỜI DÂN TỘC VIỆT VẪN NHỚ ƠN QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG

Mường Giang

            Hơn 80 năm qua CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách, để trương ngọn cờ máu mà chúng vay mượn của Nga Tàu, đem về cắm đỏ trên lãnh thổ Hồng Lạc. Đồng thời đem hình tượng và sự nghiệp cứu nước ‘ dõm ‘ của Hồ Chí Minh ra để làm lu mờ công đức dựng và mỡ nước của tiền nhân. Câu chuyện “ Tàu trù ếm long mạch trên núi Tổ “ cũng không ngoài ý đồ triệt tiêu một biểu tượng thiêng liêng nhất của người Việt, do bọn Việt gian thân Tàu trong guồng máy đảng CS thực hiện theo lệnh chủ .

            Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai miền riêng biệt tại vỹ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới. Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh  dọc theo bờ sông giới tuyến : Ðồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn (VNCH). Cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã làm hai phía đổ máu nhiều lần vì ‘ Lá Cờ ‘ được treo ở hai đầu cầu bắt ngang con sông ngăn cách .

            Thời gian đầu thi hành Hiệp định (1954-1956), còn có sự hiện diện của các toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cở lá cờ được qui định 3,2x 4,8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân Hòa luôn thay đổi khổ lá cờ Vang ba Sọc Ðỏ , theo lệnh của các đơn vị trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc ‘ Chọi Cờ ‘ bùng nổ hai bên bờ sông Bến Hải , mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết suốt 20 chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cở ‘ cờ ‘ tới 267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía bắc bị máy bay oanh tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về phía CS bị bom đánh xập.

            Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm mức quan trọng và ý nghĩa thiêng liêng của lá cờ. Có thể nói được “ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Quốc Dân VN mà VNCH đã tiếp nối sử dụng tới ngày nay “, đã được hình thành bằng cả núi xương và sông máu của quân dân Miền Nam từ đó cho tới ngày nay (2013). Cho nên không ai có thể tự mình khơi khơi,  nhân danh này này nọ nọ, để buộc người khác phải theo ý mình , phải hũy bỏ lá cờ thiêng mà mọi người trân quý hơn sinh mạng cá nhân, hay phải đứng chung dưới một ngọn cờ mà trong thâm tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, trộm cướp, xấu xa bán nước như lá cờ máu của Cộng Ðảng VN, mà ngày nay lịch sử và đời thật đã xác nhận.

            Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tỉnh phía bắc Trung Phần. Sau đó nước ta bị người Hán cưởng chiếm và sáp nhập vào lảnh thổ nước Tàu. Năm 939 sau TL, Ngô Quyền Ðại Ðế chém Hoàng Thao trên Bạch Ðằng Giang, đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cỏi Việt nhưng chỉ thâu hồi lại được một phần lảnh thổ của tiền nhân : Ðó là Bắc Việt và ba tỉnh miền cực bắc Trung Phần ngày nay.

             Năm 1802 Vua Gia Long thống nhất đất nước sau 300 năm nội chiến nhưng cho tới năm 1804 nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích. Ngày 29-4-1975, Cộng Sản Quốc Tế mở cuộc tổng tấn công thủ đô Sài Gòn, cưởng chiếm Miền Nam VN, đem gông tù Phát-Xít cùm xích lên lảnh thổ và dân tộc Việt, từ sau ngày 1-5-1975 tới nay vẫn không thay đổi.

            Ngày 29-4-2008, toàn bộ đảng CSVN đang nắm quyền cai trị VN, đã công khai chối bỏ quốc hồn, quốc thể của dân tộc, khi trải thảm quì gối cung nghênh ngọn đuốc máu của Tàu Ðỏ qua lớp hào nhoáng bên ngoài ‘ Ðuốc Thế Vận Bắc Kinh 2008 ‘, gần như đã bị cả thế giới văn minh loài người tẩy chay, nguyền rủa và khinh bỉ vì đã lộ ra chân tướng côn đồ, ỷ mạnh hiếp yếu của một đế quốc thực dân vừa ngoi lên từ Châu Á, qua sự tiếp tay cật lực của bọn lái buôn da trắng, Nhật, Nam Hàn.. .

            Tóm lại đối với dân tộc VN, điều mà tổ tiên bao đời luôn nhắc nhớ con cháu mai sau , là phải cảnh giác trước hiểm họa của giặc Tàu, lúc nào cũng nuôi dã tâm muốn chiếm cho được nước ta, ròng rã liên tục suốt mấy ngàn năm máu lệ. Ðảng CSVN đã đi ngược lại truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt, công khai ‘ cỏng giặc Tàu về dầy xéo quê hương, làm nhục quốc thể ‘.Ðó là những thành tích vĩ đại của đảng Hồ, mà hiện nay khắp thế giới đều biết, đã công khai khởi sự từ năm 1958, qua hành động công nhận hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa của VN, là lãnh thổ của Trung Cộng. Sau đó Linh, Mười, Đồng đã đại diện cho đảng đến tận Thành Đô (Tứ Xuyên), ký kết với Giang Trạch Dân và Lý Bằng vào ngày 3 + 4 tháng 9  năm 1990.  Tờ văn bản bán nước VN lần thứ hai cho Tàu, với cam kết tới năm 2020 VN vĩnh viễn sẽ trở thanh một khu tự trị của Tàu đỏ như Tạng, Hồi, Nội Mông

            Bán đất của tổ tiên cho giặc thù đã là nổi hận nhục muôn đời nhưng hậu quã chết người mà ngày nay con cháu Việt phải gánh chịu hằng ngày trên biển Ðông,qua sự kiện Phạm văn Ðồng, theo lệnh Hồ Chí Minh, ngày 4-9-1958, ký công hàm nước, xác nhận bản đồ và lời tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng là 12 hải lý. Có vậy Trung Cộng mới ngang nhiên dùng vũ lực cướp chiếp Hoàng Sa của VN năm 1974, Trường Sa năm 1988 và vẽ bản đồ lưỡi bò, lập thành phố Tam Sa.. Hiện tại, biển VN từ Quảng Nam vào tới Phan Thiết, kể cả các nước Phi, Nam Dương, Mã Lai trong Ðông Hải, từ bờ ra hải phận chỉ còn có 50 hải lý, đúng như bản đồ nước Tàu mới vừa được ban hành, Tàu công bố cải danh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VN , thành một đơn vị hành chánh mang tên Huyện Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam, vào tháng 11-2007.

            Không kể thời Bắc thuộc huyễn hoặc, bao đời Việt Nam trong dòng lịch sử, khi mất nước cũng như hồi độc lập, ngoại trừ trường hợp bán nước duy nhất của Mạc Ðăng Dung, cho nhà Minh vào năm 1540, không có một vua chúa nào, dám công khai đem một tấc đất hay đảo biển dù ở tận chốn xa xôi muôn trùng, để dâng bán cho giặc như Hồ Chí Minh và đảng VC dám làm.. suốt thời kỳ 1945 cho tới ngày nay. Vậy mà lúc nào, cũng nói Trần Thiểm Bình, Hồ Hán Thương, Mạc Ðăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh.. cõng rắn cắn gà nhà.

1- GHI NHỚ CÔNG ÐỨC DỰNG NƯỚC CỦA TỔ HÙNG VƯƠNG :

            Theo Việt sử, Họ Hồng Bàng là triều đại đầu tiên của nước ta, có quốc hiệu là Văn Lang. Qua truyền thuyết được ghi trong tất cả các bộ sử ký nước Nam, từ trước tới nay thì nước Văn Lang truyền được 18 đời vua, mới bị mất nước về tay Thục Phán, cũng là một người Việt trong nhóm Bách Việt.
           
            Ðó là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân - Au Cơ, Hùng Quốc Vương, Hùng Việt Vương, Hùng Hi Vương, Huỳng Huy Vương, Hùng Chiêu Vương, Hùng Vị Vương, Hùng Ðịnh Vương, Hùng Uy Vương, Hùng Trinh Vương, Hùng Vũ Vương, Hùng Anh Vương, Hùng Hiền Vương, Hùng Tạo Vương, Hùng Nghị Vương và Hùng Tuấn Vương. Thục Phán đánh bại vua Hùng thứ 18, vào khoảng thế kỷ thứ III trước tây lịch. Do nhà vua là người thuộc nhóm Âu Việt, nên đổi tên nước là Âu-Lạc ( tức là Lạc Việt và Âu Việt), xưng hiệu là An Dương Vương, dời kinh đô từ Phong Châu về Cổ Loa, thuộc Huyện Ðông Anh, tỉnh Phúc Yên (Bắc Phần).

            Riêng về danh xưng quốc tổ Hùng Vương của VN, đã có sự bàn cãi sôi nổi của nhiều học giả trong cũng như ngoài nước, cũng chỉ vì các danh từ Lạc Hầu, Lạc Tướng nên phải có Lạc Vương, chứ không phải Hùng Vương. Ðầu tiên là một học giả Pháp tên Henry Maspéro, tiếp theo có Sở Cuồng Lê Dư, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Ðào Duy Anh (miền Bắc), Phạm Hoàng Mỹ, Trần Viên Chung (miền Nam).. trước tháng 5-1975. Chung qui cũng vẫn quanh vấn đề, phải gọi vua nước Văn Lang là ‘ Hùng vương hay Lạc Vương ?’.

            Vì nước ta bị Bắc Thuộc cả ngàn năm, nên hầu như các nguồn sử liệu trước đó, đã bị mất mát hay tiêu hủy, nên chẳng có một chứng tích nào sót lại, ngoài sử do người Tàu thời đó viết. Mãi cho tới thời vua Trần Thái Tôn vào năm 1217, sử gia đầu tiên của nước ta là Lê Văn Hưu, mới soạn bộ ‘ Ðại Việt Sử Ký ‘, gồm 30 quyển nhưng cũng chỉ bắt đầu, từ thời vua Triệu Vũ Ðế (207 trước TL ) của Nhà Nam Việt, cho tới cuối nhà Hậu Lý (vua Lý Chiêu Hoàng ) mà thôi. Thời Vua Lê Thánh Tôn, quan Lễ Bộ Thượng Thư là Ngô Sĩ Liên, mới tom góp, sưu tầm và ghi chép lại những huyền thoại, truyền thuyết trong dân gian, qua hai tác phẩm ‘ Việt Ðiện U Linh ‘của Lý Tế Xuyên và ‘ Lĩnh Nam Chích Quái ‘ của Trần Thế Pháp, để viết bộ ‘ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ‘, gồm 15 quyển, chia thành hai phần, trong đó 5 quyển đầu gọi là ‘ Ngoại Kỷ ‘ chép từ đời Hồng Bàng cho tới năm 938 sau TL, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán, mở nền tự chủ cho dân tộc VN tới ngày nay.

            Cũng từ đó, nước ta qua các triều đại, đều làm lễ giỗ Tổ Hùng Vương, vào ngày mồng mười tháng ba (10-3) âm lịch hằng năm. Truyền thống trên bao đời đã khắc sâu vào tâm trí của người Việt cả nước, và phát sinh ra câu phong dao mà ai cũng đều thuộc lòng :

            ‘ Dù ai đi ngược về xuôi
            nhớ ngày giỗ Tổ, mồng mười tháng ba .’

            Trước năm 1945, giỗ Tổ Hùng Vương được quan Lễ Bộ Thượng Thư, thay mặt nhà vua làm chủ tế, tại đền 18 Tổ Hùng được xây dựng từ thời Hậu Lê (hậu bán thế kỷ XV) và liên tiếp được tu bổ nhiều lần vào thời nhà Nguyễn. Ðền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc đế đô Phong Châu của nước Văn Lang. Miền này nay là xã Hy Cương, Huyện Lâm Thao, Tỉnh Phú Thọ (Bắc Phần).