Showing posts with label VNCH. Show all posts
Showing posts with label VNCH. Show all posts

2015/10/27

TƯỢNG ĐÀI DƯƠNG VĂN MINH: ĐÒN CHÍNH TRỊ BÁ ĐẠO CỦA CSVN

TƯỢNG ĐÀI DƯƠNG VĂN MINH
ĐÒN CHÍNH TRỊ BÁ ĐẠO CỦA CSVN
 
Định Nguyên

Tin tức cho biết đầu tháng 11 tới (2015) chính quyền CSVN sẽ khánh thành tượng đài ông Dương Văn Minh (DVM).  Đọc tin nầy, hầu như ai cũng ngạc nhiên và tự hỏi, tại sao CSVN lại dựng tượng một vị tướng, Tổng thống cuối cùng của VNCH!  Có đích thực rằng ông  DVM là người của họ, đã “trèo cao, lặn sâu” trong hàng ngũ tướng lãnh miền Nam để giật sập VNCH theo kế hoạch của cộng sản Bắc Việt không?  Chuyện nầy chỉ có hai người biết, đó là CSVN và chính ông ta, không có một tài liệu nào, Việt Nam cũng như quốc tế, nói đến cả.  Ông DVM đã qua đời, không có cách nào để kiểm chứng sự nhận vơ lạ lùng của CSVN cả.  Vì thế, viết bài nầy, tôi không có mục đích (và cũng không đủ khả năng) làm sáng tỏ mối quan hệ giữa ông DVM và CSVN để bào chữa cho ông ta.  Tôi chỉ muốn nêu lên vài điểm chứng tỏ đòn chính trị bá đạo của CSVN qua việc dựng tượng nầy.

CSVN có mục đích gì khi dựng tượng ông DVM?
Nên nhớ, CSVN không làm một việc gì mà không có mục đích chính trị cả.  Tình nghĩa chỉ là thứ phù phiếm đối với một tập đoàn mà sự tồn tại chỉ nhờ vào thủ đoạn như họ. Dựng tượng DVM cũng thế, họ có thủ đoạn, thủ đoạn rất thâm độc.

Hạ nhục VNCH
VNCH đã đi vào lịch sử, đã bị họ giật sập, thế mà họ vẫn chưa buông tha.  Dựng tượng ông Tổng thống VNCH/DVM mà họ gọi là “đồng chí” là một nắm bùn ném vào thể chế chính trị tại miền Nam trước năm 1975, đặc biệt là một cái tát vào mặt những quân dân cán chính VNCH tại hải ngoại đang ngày đêm sôi sục chống cộng.  Họ muốn bôi nhọ Chính Nghĩa Quốc Gia mà chúng ta đang theo đuổi.  Họ muốn hạ bệ thần tượng VNCH mà người Việt chống cộng đang ca tụng và tôn thờ.

Củng cố chế độ
Từ sau 1975, bộ mặt của của chế độ CSVN trở nên nhem nhuốc. Chủ nghĩa Cộng sản chỉ còn là rác rưởi, không còn ai tin tưởng nữa, kể cả chính họ. Họ phải tìm một thế đứng, một điểm tựa khác để tồn tại.  Thế đứng đó là dân tộc và điểm tựa đó là Phật giáo.  Để biết được âm mưu của CSVN, chúng ta nên nhớ lại bối cảnh chính trị tại miền Nam Việt Nam, nhất là thời Đệ I VNCH khi có cuộc tranh đấu Phật giáo chống chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm.  Đó là một biến cố đậm nét nhất, vang dội nhất, gây chia rẽ dân tộc và tôn giáo nhất mà đến giờ nầy vẫn chưa kết thúc.  Dựng tượng Hoà Thượng Thích Quảng Đức, người đã tự thiêu để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm, CSVN muốn chiếm được sự hậu thuẩn của giới Phật tử.  Trường hợp ông DVM cũng thế.  Là một tướng lãnh Phật tử lãnh đạo cuộc cách mạng lật đổ chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 01 tháng 11 năm 1963, ông DVM rất được giới Phật tử và những thành phần chống đối Nhà Ngô ủng hộ.   Dựng tượng DVM chắc chắn CSVN muốn kéo những thành phần nầy theo mình.  Dù không theo bằng cách gia nhập đảng cộng sản nhưng ít ra người Phật tử không liều thân để chống đối chế độ như đã chống Đệ I VNCH.  Đó là mục đích chính trị của CSVN, họ chẳng tình nghĩa gì với Hoà Thượng Thích Quảng Đức cũng như ông DVM cả.

Kích động hận thù tôn giáo
Như đã nói trên, ông DVM là người Phật giáo, lại là “Phật giáo Ấn Quang”, một tổ chức chủ chốt trong việc chống chế độ Ngô Đình Diệm dẫn đến sự tiêu vong của chế độ nầy.  Biến cố nầy đã gây hiềm khích  giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo.  Lúc đầu còn tiềm tàng nhưng sau năm 1975, nhất là tại hải ngoại sự hiềm khích nầy đã lộ rõ.  Với Phật tử và những người chống chế độ Ngô Đình Diệm, ông DVM là người hùng.  Nhưng với một số đông người Thiên Chúa giáo và Đảng Cần Lao, ông DVM là một “phản tướng”.  Họ không tiếc lời mạt sát ông DVM và “Phật giáo Ấn Quang” như là một thứ “tội đồ dân tộc”.   Cho dựng tượng DVM, CSVN muốn đổ thêm dầu vào lửa, giúp nhóm bài DVM và “Phật giáo Ấn Quang” có thêm khí thế để xông lên…tố tới bến!  Cuộc chiến hiềm khích tôn giáo bắt nguồn từ một biến cố chính trị trong quá khứ cứ thế kéo dài. Dân tộc Việt Nam tiếp tục đánh nhau, tiếp tục chia rẽ..., và CSVN sẽ tiếp tục hưởng lợi, chế độ họ sẽ vững như bàn thạch.

Đó là trò chính trị bá đạo của CSVN
Tôi không có tham vọng can gián ai trong việc bày tỏ lập trường chính trị.  Tôi chỉ có một lời khuyên: Tượng đài DVM là một đòn chính trị thâm độc của CSVN.  Đề nghị bà con người Quốc Gia nên dè dặt để khỏi rơi vào bẩy sập của họ.  Như đa số, tôi không nghĩ ông DVM là người của VC, nhưng chứng minh được điều nầy không phải dễ.  Mỗi người cứ quan sát thực tế để có nhận định riêng.  Với cái nhìn của tôi, nếu ông DVM là người “nằm vùng”, đã giúp miền Bắc giật sập VNCH thì ông phải có công rất lớn đối với CSVN.  Nếu có công lớn, tại sao ông không ở lại quê hương để cùng mừng chiến thắng, cùng hưởng vinh hoa phú quý cùng các “đồng chí” của ông, việc gì ông phải ly hương tỵ nạn, sống nhờ đất khách, thác chôn quê người?  Khi VC chiếm Dinh Độc Lập, ông DVM tuyên bố: “Chúng tôi đợi các bạn để bàn giao chính quyền”.  Tên cán bộ VC xấc láo: “Các anh là kẻ chiến bại lấy tư cách gì để bàn giao”!  Điều nầy chứng tỏ ông DVM không phải là “đồng chí” của CSVN như họ đang lếu láo.  Trước sau ông DVM cũng chỉ là “hàng tướng” từ phía VNCH, không phải “chiến tướng” từ phía cộng sản.  Nếu là “chiến tướng” của cộng sản, ông DVM sẽ được đối xử khác, nhất là khi ông ta còn sống.  Tại sao khi ông DVM còn sống, CSVN không tuyên dương công trạng, không gọi ông DVM là “đồng chí” mà đợi đến lúc ông ta đã chết rồi mới “tiết lộ” rồi xây tượng đài “vinh danh”?!  Phải chăng vì không thể yêu nhau, lấy nhau được khi còn sống, CSVN phải dựng xác chết của ông DVM dậy để cưỡng  dâm một cách vô đạo?  Cưỡng dâm xác chết DVM, CSVN đồng thời cũng đã cưỡng dâm lịch sử một cách ngang ngược và lố bịch, bất chấp dòng sinh mệnh và lương tâm dân tộc.

Hành động đó không phải là trò lưu manh chính trị thì gọi là gì?

Định Nguyên
Mùa Halloween 2015

Khai Dân TríĐịnh Nguyên

2015/04/21

NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 LÀ NGÀY GÌ?

NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 LÀ NGÀY GÌ?
ĐỊNH NGUYÊN

Đối với các dân tộc khác trên thế giới, ngày 30 tháng 4 ấy cũng chỉ là một ngày bình thường như mọi ngày, hỏi như thế, họ sẽ ngớ người không biết trả lời sao cho phải.  Nhưng đối với người Việt Nam, ngày đó là ngày đã xẩy ra một biến cố lịch sử quan trọng khó ai quên được. Nhưng, nếu hỏi ngày 30 tháng tư là ngày gì, người Việt Nam sẽ không có câu trả lời như nhau.  Đó là vấn đề mà người viết muốn lạm bàn cùng quý độc giả.

HẬN THÙ
30-4-1975, Cộng Sản Việt Nam (CSVN) chiếm được miền Nam Việt Nam nên ngày đó là “ngày chiến thắng” đối với họ.
30-4-1975, Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) sụp đổ nên đó là ngày bại trận đối với quân dân miền Nam.
Sau 30-4-75, CSVN tổ chức duyệt binh mừng chiến thắng.
Sau 30-4-75, xã hội miền Nam tan hoang, người dân miền Nam khiếp hải, kinh hoàng, ngơ ngác, hổn loạn, đói khổ, ly tán; quân, cán, chính VNCH, đảng viên và lãnh đạo các đảng phái quốc gia các cấp… người trước kẻ sau, người lâu kẻ mau lần lượt “được” ví vào các trung tâm/trại cải tạo để tẩy não!

Như thế ngay từ khởi đầu, ngày 30-4 tuy không còn bom đạn nhưng cũng không phải là ngày hoà bình mà mọi người Việt Nam mừng vui đoàn tụ sau mấy chục năm chiến tranh tàn khốc!

Với chính sách khủng bố tàn độc của CSVN đối với quân, dân VNCH; ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày bắt đầu một hận thù mới, có vẻ như sâu sắc và nghiệt ngã hơn trước.  Ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ tướng CSVN nói một câu nghe khá lọt tai tuy hơi muộn màng và gần như mị dân: “Ngày 30 tháng tư có triệu người vui nhưng cũng có triệu người buồn”!  Người buồn kẻ vui trong ngày 30-4 chỉ là chuyện nhỏ, chuyện tâm lý bình thường trước một thay đổi bất ngờ trong đó có người “thắng” kẻ “thua”, người được kẻ mất.  Ông Kiệt đã lờ đi không nói đến cái cốt lõi của vấn đề xẩy ra từ trước cho đến lúc ông qua đời, kéo dài cho đến nay: chính sách phi dân tộc của CSVN!  Họ coi trọng ý thức hệ cộng sản hơn tình cảm dân tộc.  Bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản mới là mục tiêu hàng đầu của họ, độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ chỉ là chiêu bài chiến thuật.  Hận thù Quốc-Cộng bắt nguồn từ chính sách phi dân tộc nầy. Trong lúc hận thù đang sôi sục, họ vẫn tổ chức mừng “chiến thắng”, tự coi mình như một lực lượng chiếm đóng, coi người miền Nam như kẻ thù bị trị. Nếu CSVN đối xứ với quân dân miền Nam như tinh thần hậu Nội Chiến của người Mỹ (1861-1865): không coi người bại trận như kẻ thù, không hạ nhục chưởi bới, không trù dập, không tước đoạt tự do, không bắt bỏ tù, không chiếm đoạt tài sản, không bần cùng hoá đời sống… của phe thua trận thì hận thù đó không có lý do hiện hữu và tồn tại cho đến ngày hôm nay.  Tôi không nói tốt cho Mỹ, đó là sự thật lịch sử.  Mỹ cũng có nhiều cái xấu, nhưng cái tốt đẹp nhất của họ (cũng như của các chế độ tự do) là không đưa hận thù lên hàng quốc sách như các chế độ cộng sản.
Chủ Nghĩa Cộng Sản là “người” duy nhất chiến thắng vào ngày 30-4-1975.  Dân Tộc Việt Nam là kẻ chiến bại.  Chúng ta phải gọi ngày đó là ngày gì cho đúng với ý nghĩa của nó? Ngày mất nước, ngày quốc hận hay gần đây còn có một tên gọi mới: ngày bắt đầu Hành Trình Tìm Tự Do?
Hãy quay nhìn nước Đức để biết thêm. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ (1989), nếu Tây Đức tự do thua Đông Đức cộng sản thì, cũng như Việt Nam, hận thù Đông-Tây khó tránh khỏi.  Nhờ Tây Đức tự do thắng nên nước Đức đã thống nhất trong hoà bình, đã phát triển một cách tốt đẹp như hiện nay. Người thắng cuộc Tây Đức biết đặt tình cảm dân tộc lên trên hết, không theo một chủ nghĩa ngoại lai phi dân tộc nào nên không thù hận, không trù dập người Đông Đức mà lại dang vòng tay chào đón và cưu mang người anh em trở về từ bên kia chiến tuyến.  Bà Angela Dorothea Merkel là cựu quan chức cao cấp của Đông Đức, thế mà chỉ hơn 15 năm sau ngày thống nhất, bà đã trở thành Thủ tướng nước Đức (từ 2005 đến nay).  Bà là người cộng sản may mắn được Tây Đức tự do giải phóng.  Nếu bà là quan chức miền Nam Việt Nam vào thời điểm 30-4-1975 và “được” CSVN “giải phóng” chắc chắn bà phải là người “có nợ máu với nhân dân”, sẽ bị bỏ tù và con cháu của bà sẽ chịu ảnh hưởng lý lịch ba đời… 

Ở đâu có cộng sản, ở đó có hận thù. CSVN phải chịu tránh nhiệm và phải trả giá cho hận thù dân tộc mà họ hô hào trong hơn nửa thế kỷ nay.

BA MƯƠI THÁNG TƯ: NGÀY MẤT NƯỚC, NGÀY QUỐC HẬN HAY NGÀY BẮT ĐẦU HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO?

Chủ Nghĩa Cộng Sản là “người” duy nhất chiến thắng vào ngày 30-4-1975.  Dân Tộc Việt Nam là kẻ chiến bại.  Chúng ta phải gọi ngày đó là ngày gì cho đúng với ý nghĩa của nó? Ngày mất nước, ngày quốc hận hay gần đây còn có một tên gọi mới: ngày bắt đầu Hành Trình Tìm Tự Do?

Với tôi, ngày 30-4-1975 là ngày mất nước, ngày quốc hận, hay ngày bắt đầu hành trình tìm tự do đều đúng cả, gọi sao cũng được.  Tôi không ba phải, xin được giải thích.

Là một con dân miền Nam, VNCH bị sụp đổ, tôi mất nước, rõ như ban ngày không có gì để bàn luận thêm.  Chắc rằng những công chức, sỹ quan chế độ VNCH, những người quốc gia chân chính đều quan niệm như tôi.   

Ngày 30-4-1975 cũng đúng là Ngày Quốc Hân.  Cả nước uất hận vì đất nước bị lâm nguy bởi hoạ cộng sản.

Chiến Tranh Việt Nam vừa qua, dù hai bên nhân danh bất cứ thứ gì để đánh nhau thì hình thức vẫn là “nồi da xáo thịt” nghĩa là người Việt Nam bắn giết lẫn nhau.  Máu đã chảy thành sông, xương đã chất thành núi, không ai muốn thấy cảnh máu đổ xương rơi nầy kéo dài mãi.  Để chiến tranh có thể kết thúc, nếu không có một giải pháp chính trị hai bên đều có thể chấp nhận, thì phải có một bên thắng một bên thua.  Rất tiếc là “kẻ xấu đã thắng, the bad guys have won” (John McCain, Thượng Nghị Sỹ Hoa Kỳ); VNCH đã thua!  Nhà văn nữ miền Bắc Dương Thu Hương đã viết: “Chiến tranh Việt Nam là một trò đùa ngu xuẩn của lịch sử, kẻ thắng trận lại man rợ hơn kẻ thua trận”!  

Đúng thế, nếu kẻ thắng miền Nam không phải là kẻ “man rợ” CSVN mà là một thế lực dân tộc khác tốt đẹp hơn hẳn VNCH, hoặc ít lắm cũng như VNCH, không tôn thờ một chủ nghĩa ngoại lai tàn ác nào, biết vì dân vì nước, biết tìm cách xoá bỏ hận thù dân tộc sau chiến tranh, biết lo bảo vệ sự độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà…thì ngày 30-4-1975 có thể không phải là Ngày Quốc Hận nữa.  Dù thua nhưng chúng tôi cũng chấp nhận cái “thua” cho riêng mình bên cạnh cái “được” của cả dân tộc.  

CSVN không phải là một thế lực dân tộc tốt đẹp ấy.  Họ là con đẻ của một chủ nghĩa ngoại lai, những kẻ “Ốc mượn hồn”, tuy tên họ, dáng dấp và màu da Việt Nam nhưng máu và hồn của họ không còn là máu và hồn Việt Nam nữa: Họ là những người cộng sản phi dân tộc, có “đảng tính” trái ngược hẳn với dân tộc tính Việt Nam, có “văn hoá XHCN” không phù hợp với văn hoá Việt Nam, có “đạo đức cách mạng” phi nhân so với đạo đức truyền thống Việt Nam, có mục tiêu chính trị hoàn toàn đối nghịch với ước vọng ngàn đời của người Việt Nam…. Nhận thức rõ vấn đề như thế để xác định rằng cuộc chiến vừa qua là cuộc chiến giữa Dân Tộc Việt Nam và Chủ Nghĩa Cộng Sản. 

Cho nên, ngày 30-4-1975 không phải là ngày “giải phóng miền Nam” mà là ngày miền Nam bị cộng sản thôn tính.  Ngày 30-4-1975 không phải là ngày “thống nhất đất nước” cho người Việt Nam mà là ngày cộng sản thành công trong việc đặt ách thống trị của họ trên toàn cỏi Việt Nam.  Chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước” chỉ là một sự gian lận lịch sử.  Lê Duẩn, cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN từng tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho ông Liên Sô và ông Trung quốc”, nghĩa là cho Chủ Nghĩa Cộng Sản, không phải cho dân tộc Việt Nam.  Họ không “cứu” nước Việt Nam thoát khỏi ngoại xâm mà họ đã “dành lấy” đất nước Việt Nam từ tay những thế lực TỰ DO (Việt Nam cũng như đồng minh) đem dâng nó cho thế lực tàn bạo và khát máu nhất trong lịch sử loài người, đó là CNCS!   Vì nô lệ CNCS nên, sau khi Liên Sô và cộng sản Đông Âu sụp đổ, họ trở lại quỵ luỵ Trung cộng để bây giờ bị Tàu cộng lấn đất, chiếm biển, cướp đảo…mà họ ú ớ như là một kẻ đồng loã, không có một sự phản kháng xứng mặt nào của một chính quyền bình thường biết bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của cha ông.  Có người cho rằng, vì “lý tưởng cộng sản”, CSVN đã và đang từng bước dâng đất nước Việt Nam cho Trung cộng để duy trì và bảo vệ “thành trì XHCN”.

Chế độ miền Nam cũng đầy khuyết tật nhưng so với CSVN, VNCH hơn hẳn về mọi mặt: tự do dân chủ, nhân quyền và dân quyền, đặc biệt là tinh thần dân tộc và bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ… 

- Trong khi chỉ trong vòng hai mươi năm (1955-1975), với thể chế tự do dân chủ, miền Nam đã có được một kho tàng văn hoá dân tộc đa dạng và phong phú thì tại miền Bắc, nơi được coi là cái nôi của văn hoá dân tộc, CSVN ra sức tận diệt nền văn hoá nầy.  Qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm hay Trăm Hoa Đua Nở, họ đã gài bẩy để đày ải tù tội các văn thi nhạc sỹ tinh tuý của quê hương để dựng lên một lớp văn nô đỏ, hô hào đấu tố và chém giết để phục vụ cho đảng. 

-Trong khi VNCH chiến đấu để bảo vệ chủ quyền đảo Hoàng Sa (1974) thì CSVN công nhận Hoàng Sa/Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung cộng (Công Hàm Phạm Văn Đồng)!

Chỉ chừng đó cũng đủ để quý vị thấy cái chân tướng sắt máu và phi dân tộc của tập đoàn CSVN.

Sau khi CSVN tràn ngập Miền Nam, nhà thơ Phan Huy (một thi sỹ miền Bắc?) trong một chuyến thăm miền Nam đã sáng tác bài thơ:
CẢM TẠ MIỀN NAM, có những đoạn như sau:

Tôi còn nhớ sau ngày “thống nhất”
Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt…

(sưu tầm trên net)

Tôi thông cảm nhưng cũng tội nghiệp cho người thi sỹ miền Bắc nầy, sống với Bác và Đảng hàng chục năm mà không biết bản chất của họ.  Không phỉnh gạt, không lừa dối, không trí trá, không lật lọng…thì không phải cộng sản, đặc biệt là CSVN! Để thôn tính toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, CSVN đã bất chấp mọi thủ đoạn gian xảo, mọi âm mưu thâm độc, mọi láo lường vô liêm…để kích động người dân đứng lên cầm súng giúp họ đạt mục đích.  Kết quả là, sau miền Bắc họ đã chiếm nốt miền Nam.

Dân tộc Việt Nam phải rơi vào vòng nô lệ mới, khắc nghiệt và thê thảm hơn bất cứ một hình thức nô lệ nào trước đây! 
Đây là một nhận định thuộc lương tri và trí tuệ dân tộc, không một cá nhân, đoàn thể nào có thể “Âm mưu xoá bỏ ngày Quốc Hận” nầy được. Hơn nữa, “Ngày Quốc Hận” không phải là một bức tượng, một điều luật, một văn kiện hành chánh… mà là một niềm đau tâm linh bất biến trong lòng mọi người, ai tài cán gì mà đòi huỷ bỏ?!

Hạ bệ được VNCH coi như kẻ xấu đã bức hại người tốt, độc tài tiêu diệt tự do, hung tàn thắng nhân ái, bần cùng chiếm chỗ sung túc... Mất miền Nam, dân tộc Việt Nam coi như đã mất một vận hội để vươn tới tự do, dân chủ, độc lập dân tộc, văn minh và giàu mạnh… Cho nên phải gọi ngày 30-4-1975 là NGÀY QUỐC HẬN, không những đối với con dân miền Nam mà còn đối với đồng bào cả nước, bất cứ ai yêu tổ quốc, chống cộng sản, biết thao thức và lo lắng cho sự mất còn của dân tộc và đất nước Việt Nam.  

Đây là một nhận định thuộc lương tri và trí tuệ dân tộc, không một cá nhân, đoàn thể nào có thể “Âm mưu xoá bỏ ngày Quốc Hận” nầy được. Hơn nữa, “Ngày Quốc Hận” không phải là một bức tượng, một điều luật, một văn kiện hành chánh… mà là một niềm đau tâm linh bất biến trong lòng mọi người, ai tài cán gì mà đòi huỷ bỏ?!

Sau khi giật sập được VNCH, CSVN đã thi hành một chính sách tàn ác, khắc nghiệt, tước đoạt hết mọi tự do đã có sẵn của người miền Nam, bần cùng hoá đời sống của mọi tầng lớp nhân dân vốn đang sống trong sung túc…Chính từ đó nên phong trào vượt biên, vượt biển mới thành hình.  Người miền Nam lớp lớp vượt thoát ra đi tìm tự do bất chấp mọi gian nan và nguy hiểm.  Nhìn sự chạy trốn cộng sản rầm rộ của người Việt Nam, một người ngoại quốc đã có một nhận định khá khôi hài: “Dưới chính sách khắc nghiệt của cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng vượt biên” (Ginetta Sagan)!  

Nếu CSVN không cưỡng chiếm miền Nam vào ngày 30-4-1975 thì sẽ không có mấy triệu người Việt Nam đi tỵ nạn khắp thế giới!

Nếu VNCH không sụp đổ vào ngày 30-4-1975 thì người Việt Nam không cần BỎ NƯỚC ĐI TÌM TỰ DO TẠI NHỮNG XỨ KHÁC!

(Sau vượt biên, vượt biển, các “diện” con lai, đoàn tụ, HO lần lượt ra đi. Nếu không tìm tự do thì ra đi để làm gì)?!

Như vậy, nếu nói ngày 30-4-1975 là ngày bắt đầu cho một hành trình TÌM TỰ DO của chúng ta thì bất ổn chỗ nào, sai chỗ nào, xa thực tế chỗ nào, “thiên cộng” chỗ nào?!  Hiện nay, gần đến ngày 30-4 lần thứ 40, tại hải ngoại đang rộn lên sự tranh luận về ý nghĩa ngày nầy, nhất là sau khi Thượng Nghị Sỹ Canada Ngô Thanh Hải đề nghị dự luật S219 coi ngày 30-4-1975 là ngày bắt đầu HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO cho cư dân Việt tại đó.  Một số người Việt hải ngoại chống đối dự luật nầy đã chưởi bới lăng nhục TNS. Ngô Thanh Hải thậm tệ.  CSVN cũng thế, họ điên tiết phản đối dự luật nầy.  Quả là một sự gặp gỡ hi hữu!  Nếu không phải là hiện tượng “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” thì giải thích sự “gặp gỡ” nầy như thế nào?  Điều gì đã xẩy ra khiến hai bên đối địch mà lại có cùng một hành động, một mục đích, một “chí hướng” như thế? Quốc cộng đề huề chăng?

Vì sao CSVN sợ dự luật S219 ai cũng có thể biết.   Nhưng một số người Việt hải ngoại sợ dự luật nầy vì lý do gì?  Sợ bị sập bẩy tuyên truyền của CSVN, theo đó ngày “giải phóng miền Nam” là ngày bắt đầu hành trình của tự do cho người Việt Nam?!  Nghĩ như thế là thiếu căn bản thực tế, coi thường sự quan sát và nhận định của chính mình!  CSVN là một chế độc tài đảng trị mọi người Việt Nam đều biết, cả thế giới đều biết, sao mình không biết?!

Với tôi, như đã nói phần trên, Ngày Quốc Hận hay Ngày Bắt Đầu Cuộc Hành Trình TÌM TỰ DO không có gì mâu thuẩn nhau cả.  Hai ý nghĩa ấy không hề triệt tiêu lẫn nhau, không bắt buộc CÓ cái nầy thì phải KHÔNG CÓ cái kia, mà ngược lại cả hai đã bổ túc cho nhau nói lên sự bất dung tàn bạo của CSVN.  Do vậy, sự tranh luận ngày 30-4-1975 là “Ngày Quốc Hận” hay “Ngày Bắt Đầu Cuộc Hành Trình Tìm Tự Do” hoàn toàn không cần thiết, và chắc chắn sẽ không đi đến đâu, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ, chưa cần nói đến sự mất đoàn kết (nếu có) giữa những người cùng chiến tuyến!

ĐỊNH NGUYÊN
Sacramento, THÁNG TƯ ĐEN năm 2015

Khai Dân TríĐịnh Nguyên

2014/04/02

VC Nằm Vùng Trong Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng Và Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH

VC Nằm Vùng Trong Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng Và Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo
Việt Nam Cộng Hòa


1* Mở bài

Việt Cộng nằm vùng thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Khi tập kết ra Bắc, cài người ở lại. Cho gián điệp trà trộn vào đoàn người di cư vào Nam. Chiêu dụ trí thức háo danh, lừa gạt người có máu phản bội…thế là bọn nằm vùng, bọn người ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản, bọn trở cờ tràn lan ở đâu cũng có khắp miền Nam.

Những trí thức háo danh bị lừa gạt, khi mở mắt ra thì đã muộn. Một số phóng lao phải theo lao, một số ngậm bồ hòn để còn hưởng chút lợi danh dỏm. Một số còn chút đỉnh liêm sỉ trước khi tắt thở nói những lời ăn năng sám hối, đó là những Trương Như Tảng, bác sĩ Dương Huỳnh Hoa, Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Hộ…. Ngay cả thiếu tướng tình báo, anh hùng quân đội nhân dân, Phạm Xuân Ẩn, trước khi chết cũng trối trăng “Xin đừng chôn tôi gần Cộng Sản”. Bạn thân của Phạm Xuân Ẩn là phóng viên chiến trường David DeVoss viết trên Weekly Standard số ngày 9-10-2006, Volume 012-Issue 04 do Trà Mi dịch.

Tất cả bọn vô liêm sỉ và phản bội đó đã góp phần đưa dân tộc Việt Nam vào chế độ độc tài, tàn bạo cai trị bằng đàn áp và những mánh khóe, chiêu bài lừa bịp.

Người dân miền Nam mất nước, mất dân chủ và tự do, mất tài sản cũng vì cái chế độ quái ác nầy, cũng vì cái đảng mắc dịch có thành tích cướp của giết người trong “cải tạo công thương nghiệp (đánh tư sản, đuổi đi kinh tế mới để cướp nhà cướp đất). Nhưng tiếc thay, đánh tư sản lại trở thành tư sản như vậy là “Kách Mệnh” thoái trào. Không gì bằng phải vực cái hồn của Đỗ Mười dậy tiến hành khẩn trương cuộc đánh tư sản lần thứ hai. Tịch thu nhà cửa tài sản hắn, vợ hắn ta xài, con cái hắn ta bắt làm nô lệ. Đó chỉ là bài bản cũ, bổn cũ soạn lại, “nôm na” gọi là dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân.

Đảng nầy chỉ có một thành tích muôn đời là tham nhũng đầy ấn tượng thôi.

2* Nằm vùng trong các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa

Áp dụng chủ trương trèo cao lặn sâu, gián điệp Cộng Sản đã xâm nhập vào nằm vùng ngay tại những cơ quan đầu não của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Bắt đầu từ cụm tình báo A-22 tại Dinh Độc Lập gồm có Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy…

Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập

Tại Nha Cảnh Sát Đô Thành thì có đại úy Triệu Quốc Mạnh mà Dương Văn Minh phong chức Chỉ huy trưởng Nha Cảnh Sát Đô Thành. Người nầy cho những trưởng ty cảnh sát ở các quận đô thành được bỏ nhiệm sở, về nhà lo thu xếp chuyện gia đình, đồng thời hắn lấy lịnh của Tổng Thống Dương Văn Minh, phối hợp với Tư lịnh phó Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia là đại tá Phạm Kim Quy thả tù VC, người đầu tiên là Huỳnh Tấn Mẫm.

Tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH thì có đại tá VC nằm vùng trong văn phòng của Đại tướng Cao Văn Viên, đó là người giữ chìa khoá tủ hồ sơ tối mật, thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh.

Tại phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo thì có Nguyễn Văn Tá, bí danh Ba Quốc tức là thiếu tướng tình báo VC Đặng Trần Đức. Như vậy, không còn chỗ nào lưu giữ hồ sơ gọi là tối mật của quốc gia cả.

Tại Hạ Viện Quốc Hội VNCH thì có đại tá Đinh Văn Đệ, bí số U-4.

Tóm lại chỗ nào cũng có bọn sâu bọ nằm vùng đánh phá đó cả. Số phận chết yểu của Việt Nam Cộng Hòa là ở chỗ đó. Đại tướng Cao Văn Viên tức mình phải nói: “Tài liệu của Bộ Tổng Tham Mưu, Tổng Tham Mưu Trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã đọc hết rồi”

3* Người giữ chìa khoá tủ hồ sơ mật của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH

3.1. Người thân tín nhất của Đại tướng Cao Văn Viên là đại tá Việt Cộng

Theo tài liệu Việt Cộng thì người thân tín nhất của Đại tướng Cao Văn Viên là một đại tá Việt Cộng mang bí số H-3. Người nầy được phép ra vào văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng bất cứ lúc nào cũng được, không cần phải xin phép. Người tin cẩn nầy được giữ chìa khoá tủ hồ sơ mật của văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng.

Đó là thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, thơ ký đánh máy của văn phòng Đại tướng Cao Văn Viên. Nằm vùng suốt 10 năm, từ Nguyễn Hữu Có rồi Đại tướng Cao Văn Viên, đến ngày 30-4-1975 mà vẫn chưa bị lộ. Ba Minh giữ toàn bộ tài liệu mật của Bộ Tổng Tham Mưu gồm hồ sơ hơn một triệu quân của VNCH cùng toàn bộ giấy tờ thuộc văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, không mất một tờ nào, rồi giao lại cho Việt Cộng.

Cho mãi đến năm 2006, CIA Mỹ cũng chưa biết người đó là ai.

Năm 2006, trong một cuộc hội thảo quốc tế về Tình Báo Trong Chiến Tranh Việt Nam, Merle Pribbenow, cựu nhân viên CIA cho biết: “Đúng là phải có một điệp viên Cộng Sản nằm vùng ngay trong lòng Bộ Tổng Tham Mưu. Dường như không phải là một sĩ quan cao cấp, không phải là một tùy viên thân cận Tổng thống Thiệu nhưng chắc chắn là người nầy đã gởi ra Bộ Chính trị Bắc Việt những tin tình báo chiến lược”.

3.2. Phương thức chuyển tài liệu

Thượng sĩ nhất Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1943, học hết tiểu học, cao 1.7 m, nặng 40kg, vợ và có 10 con thường xuyên nghiên cứu và đánh số đề, lương hàng tháng không đủ nuôi gia đình nên Việt Cộng xuất tiền mua một chiếc xe Honda để y chạy xe ôm. Đó là phương tiện chuyển tài liệu mật một cách công khai mà không bị nghi ngờ. Ba Minh là người che giấu thân phận rất kín, luôn luôn đánh số đề và chạy xe ôm.

Đường dây giao liên chung quanh người Việt Cộng nằm vùng nầy gồm cả gia đình, vợ tên Đinh Thị Nữ, em gái tên Nguyễn Thị Nguyệt (H-4), em rể và em trai là Nguyễn Văn Chí, (cảnh sát áo trắng).

Lịch hẹn trao tài liệu ban đầu là 2 tháng một lần, rồi nhồi lên mỗi tháng một lần và thời điểm cao nhất là 5 ngày một lần. Hàng chục giao liên được cử để phục vụ cho đường dây của H-3, Nguyễn Văn Minh, họ phải thề độc là bị bắt, bị đánh ngay cả sắp bị giết cũng không khai H-3.

3.3. Những “tài liệu vàng”

Tài liệu của Việt Cộng cho biết chưa đầy một năm, Ba Minh chuyển ra 90 tài liệu, mỗi bản hàng chục trang giấy pelure viết tay. Những tài liệu quan trọng được gọi là “tài liệu vàng”.

“Tài liệu Ba Minh gởi về rất sớm. Ngay từ tháng hai năm 1974 mà kế hoạch quân sự năm 1975 của Sài Gòn đã nằm trong văn phòng bộ chỉ huy Hà Nội”, một cán bộ cho biết như thế.

Tài liệu vàng gồm có:

- Kế hoạch năm 1974-1975 của Hải Quân VNCH.

- Những thơ của Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự DAO về kế hoạch Mỹ viện trợ cho VNCH. (DAO=Defense Attaché Office).

- Những văn bản mà Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gởi cho Cao Văn Viên cũng đã qua tay thượng sĩ nhất H-3 Nguyễn Văn Minh nầy. Thậm chí những tài liệu thuộc diện tối mật chỉ có 5 người được đọc cũng được Ba Minh lưu vào tủ hồ sơ mật.

4* Việt Cộng nằm vùng từ Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội đến Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH

4.1. * Sở Nghiên Cứu Chính Trị, Xã Hội và bác sĩ Trần Kim Tuyến

4.1.1. Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội

Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội (tiếng Pháp là Service des Études Politiques et Sociales), là cơ quan tình báo, phản gián chiến lược của Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, được thành lập năm 1956, trực thuộc Phủ Tổng Thống. Nhiệm vụ điều tra, thu thập tin tức tình báo chiến lược về mọi mặt. Tổ chức và chỉ huy các hoạt động gián điệp tại Bắc Việt và bảo vệ an ninh nội bộ.

Sở có chi nhánh ở Huế, Vientiane (Lào), Phnom Penh (Campuchia), Bangkok (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia) và Singapore.

Bác sĩ Trần Kim Tuyến làm giám đốc sở nầy, ngoài ra còn có những người thân cận của ông Ngô Đình Nhu như Hoàng Ngọc Điệp, Cao Xuân Linh, Nguyễn Văn Chiểu và Nguyễn Duy Bách.

4.1.2. Bác sĩ Trần Kim Tuyến

1). Thân thế

Bác sĩ Trần Kim Tuyến sinh năm 1925 tại Thanh Hoá. Năm 1949 lên Hà Nội ghi tên hai đại học là Trường Luật và Y Khoa. Tốt nghiệp ngành luật năm 1952. Về Y Khoa, đang học thì bị động viên và chuyển sang Trường Quân Y. Tốt nghiệp với cấp bậc trung úy.

Thời gian ở Hà Nội, ông kết bạn với nhóm trí thức trong đó có Ngô Đình Nhu. Ông gia nhập đảng Cần Lao và trở thành người thân tín của Ông Nhu.

Năm 1956 được giao chức vụ Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội, thực chất là Sở Mật Vụ, còn có tên là Phòng 4, thuộc Phủ Tổng Thống.

2). Trần Kim Tuyến bị thất sủng

Sau cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960 của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông, và việc hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom Dinh Độc Lập mà Sở Mật Vụ không dự đoán được những vụ đó. Trần Kim Tuyến bị thất sủng. Sở Mật Vụ bị giải thể.

Trần Kim Tuyến được cử đi làm Tổng Lãnh Sự ở Ai Cập. Trên đường đi, khi quá cảnh Hongkong, ông xin tỵ nạn chính trị. Lưu vong lần thứ nhất.

Sau vụ đảo cháng 1-11-1963 lật đổ Ngô Đình Diệm, ông trở về Sài Gòn và bị bắt, biệt giam, nhờ đại tá Phạm Ngọc Thảo cứu vớt nên khỏi chết.

Chính quyền mới không trọng dụng vì ông đã có quá khứ liên hệ chặt chẽ với chế độ Ngô Đình Diệm. Ông chuyển sang viết báo với hai bút hiệu là Thảo Lư và Lương Khải Minh. Viết cho tờ Chính Luận và tờ Xây Dựng.

Ngày 30-4-1975, trên đường chạy đến Toà Đại sứ Pháp xin tỵ nạn, ông được một phóng viên làm việc cho tờ báo ngoại quốc (Time) giúp đở phương tiện rời Việt Nam. Lưu vong lần thứ hai. Trớ trêu thay, người đó là tình báo chiến lược Việt Cộng, Phạm Xuân Ẩn.

Trước đó, năm 1963 ông liên hệ với một sĩ quan quân đội âm mưu đảo chánh Ngô Đình Diệm, người đó cũng là tình báo chiến lược của VC, Đại tá Phạm Ngọc Thảo.

Sau khi thoát khỏi Việt Nam ông xin tỵ nạn ở Anh Quốc. Ông mất ngày 23-7-1995. Thọ 70 tuổi.

4.2. Gián điệp Việt Cộng Nguyễn Văn Tá (Ba Quốc) tiếp cận với Trần Kim Tuyến

Trong bối cảnh chuyển giao quyền hành giữa Pháp và Mỹ, Nguyễn Văn Tá, biệt hiệu là “Tá bụt” nắm được tin tức, có một chuyến tàu chuyển vàng lậu về Pháp, tin tức do trưởng Phòng Nhì Pháp là Trần Ginard tiết lộ. Người Việt Cộng nằm vùng nầy liền xử dụng tin tức đó làm quà ra mắt với mục đích “tiếp cận” với trùm mật vụ, bác sĩ Trần Kim Tuyến. Người làm trung gian là Kiều Văn Lân, quản lý nhật báo Tự Do, thân cận với bác sĩ Tuyến.

Ngay lúc đó một chỉ thị mật được ban hành, là biệt phái người kế toán Nha Công An Nam Phần về Ban Công tác Đặc biệt Phủ Tổng thống, đặc trách điệp vụ săn vàng.

“Nào ngờ sự việc mới bắt đầu thì bổng nhiên tôi bị bắt mà không biết lý do gì. Trong phòng giam hai nhân viên của tôi cũng bị bắt, họ ném giấy cho biết: “Bọn em bị tra tấn tàn bạo. Chúng buộc bọn em phải khai là anh cùng bọn em đã nhận lịnh của bác sĩ Tuyến ám sát trung tá Lý Thái Như, lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống và trung tá Nguyễn Cao, biệt bộ Phủ Tổng Thống.

Sau khi phân tích và kiểm điểm mọi việc, tôi biết mình là nạn nhân giữa hai phe đàn em của Ngô Đình Nhu và đàn em của Ngô Đình Cẩn. Bác sĩ Tuyến là người của ông Nhu, trung tá Lý Thái Như và trung tá Nguyễn Cao là người thuộc phe Ngô Đình Cẩn.

Tôi quyết định đứng về phía ông Nhu. Khoảng một tuần lễ sau, đại úy Nguyễn Đức Xích vào phòng giam cho biết: “Anh cứ an tâm. Bác sĩ Tuyến bảo tôi phải lo cho anh ra”.

Một tháng sau, trung tá Như bị cách chức, và bác sĩ Tuyến được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội, thay thế ông Vũ Tiến Huân”.

Từ đó, Ba Quốc trở thành thuộc hạ trung thành của bác sĩ Trần Kim Tuyến.

4.3. Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung và Dương Văn Hiếu
1). Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung

Là cơ quan tình báo, phản gián của Ngô Đình Cẩn do Dương Văn Hiếu chỉ huy và Nguyễn Tư Thái làm phụ tá về hành chánh. Nguyễn Tư Thái có biệt hiệu là Thái Đen, biệt danh là “Đại tá Thanh Tùng”. Thái Trắng là Lê Văn Thái làm việc cho Sở Mật vụ của bác sĩ Trần Kim Tuyến.

Đoàn được thành lập năm 1957 với mục đích là “Cải tạo và xử dụng các cán bộ cựu kháng chiến”. Trụ sở đặt tại Trại Lê Văn Duyệt, gần Biệt Khu Thủ Đô. Đoàn có 8 nhân viên, hai thư ký đánh máy, được coi như trực thuộc Ty Công An Thừa Thiên và thành phố Huế.

“Tôi làm việc gần với ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng Tổng thống Diệm gọi tôi và Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc trình cho ông Ngô Đình Cẩn mà thôi”. Trong những ngày cuối cùng trước cuộc đảo chánh 1-11-1963 ông Cẩn đã hiểu lầm tôi làm tôi rất nhức đầu”. Dương Văn Hiếu trả lời phỏng vấn như thế.

Tóm lại ĐCT/ĐB/MT làm việc với ông Ngô Đình Nhu nhiều hơn với ông Cẩn. Sở dĩ gọi ĐCT/ĐB/MT là do thi hành “chính sách” đặc biệt của ông Ngô Đình Cẩn.

Đoàn công tác nầy có những thành công đặc biệt, đã từng bắt giữ những cán bộ tình báo gộc của Việt Cộng như: Mười Hương (tháng 6, 1958), Vũ Ngọc Nhạ (tháng 12, 1958), Lê Hữu Thúy (năm 1959), Nguyễn Văn Nghiệp (1960), đại tá Lê Câu (1961). Lê Câu là chỉ huy quân báo Việt Cộng ở miền Nam. Đoàn nầy cũng theo dõi Phạm Ngọc Thảo và đề nghị tổng thống Diệm lưu ý đến người nầy.

Sau vụ lật đổ tổng thống Diệm đoàn công tác nầy bị giải tán và Dương Văn Hiếu bị điều tra và kết án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo.

2). Phương pháp thẩm vấn đặc biệt của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung

Dương Văn Hiếu, trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung (ĐCT/ĐB/MT) cho biết:

“Trong các nhà tù không song sắt, công an, mật vụ ăn ở, học tập, chơi và sinh hoạt chung với những cán bộ Việt Cộng sa lưới. Các toán trưởng thu thập những lời khai của các cán bộ VC, nạp cho Ban Cải Tạo.

Khi phát hiện những VC nằm vùng chúng tôi không bắt công khai mà tổ chức bắt bí mật. Giữ kín hoàn toàn các cá nhân đầu hàng hay hợp tác. Đoàn của tôi tạo nên một màng lưới phục kích, bao vây từ những đường dây giao liên và các cơ sở cũ.

Khi bị bắt về, thay vì hỏi cung thông thường, chúng tôi áp dụng biện pháp mạn đàm, trao đổi, tranh luận cởi mở với các đối tượng. Nếu cần, mua chuộc dụ dỗ chuyển hướng.

Đối với những cán bộ VC ngoan cố chúng tôi xử dụng tập thể cải tạo để khuyên nhũ, lôi cuốn hoặc tấn công bằng xa luân chiến, tranh luận áp đảo đối với các thắc mắc và các phản ứng của những người bị bắt. Tuyệt đối không có tra khảo hay chửi bới…

Với phương pháp nầy Đoàn đã phá hai màng lưới tình báo chiến lược và quân báo VC từ Bến Hải đến Sài Gòn”.

Ông Dương Văn Hiếu cho biết, ông đã đưa Trần Quốc Hương (Mười Hương) từ Sài Gòn ra Thuận An để bí mật gặp hai ông Nhu và Cẩn. Chuyến bay đặc biệt do phi công Nguyễn Cao Kỳ lái.

Mười Hương đã giao ước gì với hai ông Nhu và Cẩn tôi không được biết.

Mười Hương đã được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng phóng thích vào tháng 5 năm 1964.

Trần Quốc Hương (tên thật là Nguyễn Ngọc Ban) là ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, người chỉ huy mạng lưới tình báo của Việt Cộng ở miền Nam, là cấp chỉ huy trực tiếp của Vũ Ngọc Nhạ (thiếu tướng tình báo VC), Lê Hữu Thúy, Phạm Ngọc Thảo (đại tá), Phạm Xuân Ẩn (thiếu tướng).

“Đại tá Lê Câu (VC) đã giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, công cán ủy viên của Bộ trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu. Lương ăn trộm và chuyển hồ sơ mật về kế hoạch kinh tế Staley&Vũ Quốc Thúc. Tôi gài bẫy và bắt Lương khi lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhất để đi Thái Lan vì công vụ. Ông Mẫu không hay biết việc nầy”.

3). Dương Văn Hiếu với Phạm Ngọc Thảo

“Trong vai trò phản gián tôì theo dõi Phạm Ngọc Thảo. Thảo trình báo với Tổng thống Diệm là ĐCT/ĐB/MT đã bám sát y. Tôi lưu ý Tổng thống Diệm vì y có bà con làm việc cho Bắc Việt với chức vụ hệ trọng”. Anh ruột là luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần, tập kết ra Bắc, làm đại sứ Cộng Sản Hà Nội (CSHN) tại Đông Đức. Một người anh khác là Phạm Ngọc Hùng, ủy viên chánh phủ Cộng Hoà miền Nam Việt Nam. Vợ Thảo là Phạm Thị Nhiệm, em của Phạm Thiều làm đại sứ CSHN ở một số nước Đông Âu”.

Dương Văn Hiếu cho biết, tướng Đỗ Mậu không ưa ông vì ông đã phát hiện và bắt giữ thiếu úy Lê Hữu Thúy, một điệp viên VC được Đỗ Mậu đặt làm trưởng phòng An Ninh tại Nha An Ninh Quân Đội. ĐCT/ĐB/MT cũng đã bắt Vũ Ngọc Nhạ khi làm công chức tại Bộ Công Chánh. Bộ trưởng Nội Vụ Hà Thúc Ký đã thả Vũ Ngọc Nhạ sau năm 1963.

4). Vài nét về Dương Văn Hiếu.

Dương Văn Hiếu sinh tại Hà Nam trong một gia đình trung lưu. Học trung học Louis Pasteur và Thăng Long. Có bằng Diplôme d’Études primaire supérieures. Sau năm 1954 được tuyển vào làm công an. Năm 1957 giữ chức trưởng ban khai thác Nha Công An Cảnh Sát Trung Phần, rồi làm trưởng ty Công An Thừa Thiên-Huế. Giữa năm 1957 được bổ nhiệm làm Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung.

Sau khi Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đổ, bị kết tội chung thân khổ sai, đày đi Côn Đảo.

Năm 1964, Dương Văn Hiếu được phóng thích và làm nghề bán thuốc tây sinh sống.

Đêm 28-4-1975 Dương Văn Hiếu và con trai đầu lòng rời Việt Nam bằng tàu hải quân trên đó có Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia.

Năm 1989 vợ và 8 con của Dương Văn Hiếu được đoàn tụ gia đình ở Hoa Kỳ.

4.1. Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo

Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa (Central Intelligence Office-CIO) là cơ sở tình báo chiến lược trực thuộc Phủ Tổng Thống. Tên giao dịch hành chánh là “Nha Hành Chánh và Nhân Viên Phủ Tổng Thống”. Trụ sở đặt tại số 3 Bến Bạch Đằng, nằm cạnh Nha Quân Pháp và Bộ Tư Lịnh Hải Quân.

Cơ quan nầy được thành lập do sắc lịnh số 109/TTP ngày 5-5-1961 do tổng thống Ngô Đình Diệm ký.

4.2. Hệ thống tổ chức của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo

Phủ Đặc Ủy gồm có những tổ chức như sau:

4.2.1. Cục Tình Báo Quốc Nội

Cục Tình Báo Quốc Nội gồm có:

1). Nha Điệp Báo (Ban K)

2). Nha Phản Gián (Ban U)

3). Nha Chính Trị (Ban Z)

4.2.2. Cục Tình Báo Quốc Ngoại

Cục Tình Báo Quốc Ngoại gồm có các tổ chức:

Phú Xuân (Pháp), Lam Sơn (Anh), Thái Bình Dương (Nhật), Tiền Giang (Thái Lan), Phú Quốc (Campuchia)

4.3. Các Đặc Ủy Trưởng

Theo thời gian: Đại tá Lê Liêm, Đại tá Nguyễn Văn Y, Trung tướng Mai Hữu Xuân, Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan, Trung tướng Linh Quang Viên, Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình và ông Nguyễn Phát Lộc.

Sau ngày 30-4-1975 phần lớn nhân viên Phủ Đặc Ủy bị kẹt lại ở Việt Nam. Chiều ngày 28-4-1975 tòa Đại Sứ Mỹ yêu cầu tất cả nhân viên tập hợp tại trụ sở số 3 Bến Bạch Đằng để chờ. Sau đó chuyển sang địa điểm số 2 đường Nguyễn Hậu nhưng đến 1 giờ sáng 30-4-1975 thì tất cả liên lạc giữa Tòa Đại Sứ và Phủ Đặc Ủy đều bị cắt.

5* Gián điệp Việt Cộng Đặng Trần Đức

5.1. Tiểu sử Đặng Trần Đức (Nguyễn Văn Tá)

Đặng Trần Đức (1922-2004) sinh tại Thanh Trì, Hà Nội. Bí danh Ba Quốc, Thiếu tướng tình báo, Cục trưởng Cục 12 thuộc Tổng Cục 2, Bộ Quốc Phòng.

Vợ của Ba Quốc tên Ngô Thị Xuân, 3 con: hai trai tên Phong, Vũ và con gái tên Thảo. Ba Quốc còn có một vợ bỏ lại Hà Nội khi di cư.

Năm 1954 Đặng Trần Đức theo đoàn người di cư vào Nam mang tên Nguyễn Văn Tá (Tá bụt). Làm kế toán tại Nha Công An Nam Phần. Từ năm 1963 trở thành phụ tá trung thành của bác sĩ Trần Kim Tuyến.

Sau khi ông Diệm bị lật đổ, nhiều cấp chỉ huy Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội bị điều tra, thẩm vấn, bắt giam, kết án tù hoặc tịch thu tài sản. Ba Quốc bị chuyển sang Ty Sưu Tầm thuộc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Sau đó giáng xuống làm nhân viên thường và bi điều về Sở Giao Tế Dân Sự, một bộ phận chống đảo chánh của Phủ Đặc Ủy TW Tình Báo. Nhờ có quan hệ tốt với trung tá Trần Ngọc Châu, giám đốc Sở, và sau đó vào làm việc tại Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo.

Chết ngày 26-3-2004 tại Quân Y Viện 175, Sài Gòn.

5.2. Hoạt động tình báo
Đặng Trần Đức đánh phá Việt Nam Cộng Hòa bằng những cách: gây chia rẻ giữa Nguyễn Cao Kỳ với Tổng thống Thiệu, giữa các đoàn thể và các dân biểu nghị sĩ chống lại chính quyền. Đánh cắp và chuyển tài liệu mật cho Việt Cộng đồng thời khám phá những cán bộ VC làm nội tuyến cho Việt Nam Cộng Hòa.

1). Xúi giục Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh

Việt Cộng nằm vùng Nguyễn Văn Tá (Ba Quốc) xúi giục Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chánh nhưng không thành công vì ông Kỳ không được Phật giáo ủng hộ do vụ Phật Giáo miền Trung, và do Mỹ không chấp nhận một cuộc đảo chánh.

2). Gây chia rẻ giữa bà Thiệu và bà Trần Thiện Khiêm

Gián điệp nằm vùng Ba Quốc kể lại như sau:

“Qua điều tra tôi biết bà Thiệu và bà Khiêm có mâu thuẩn nhau, tôi xúi giục cháu bà Thiệu là trung úy trẻ Nguyễn Thành Long báo cáo với bà Thiệu là Tướng Nguyễn Khắc Bình trọng dụng người của Trần Thiện Khiêm là Đại tá Nguyễn Phi Phụng, trong kế hoạch sẽ đưa Nguyễn Thành Long lên thay thế Phụng ở chức vụ chỉ huy Phòng Chính Trị (Ban Z).

Kết quả ngoài dự tính là, Đại tá Nguyễn Phi Phụng bị đưa ra khỏi Phủ ĐU/TW/TB, về Tổng Nha Quan Thuế. Người thay thế Phụng là Đại tá Huỳnh Thới Tây.

Riêng Trung úy Nguyễn Thành Long thì bị đổi về Trường Bộ Binh Thủ Đức làm Phó phòng An Ninh Quân Đội. Trung tá Võ Thanh Phong thay thế Long chỉ huy phòng Chính Trị (Ban Z)

Về sau Đại úy Nguyễn Thành Long bị bắn gãy chân trong một vụ nhậu nhẹt ở Sài Gòn.

3). Ba Quốc ăn cắp tin mật của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH

Ba Quốc thuật lại: “Biết được sự mâu thuẩn giữa Tướng Nguyễn Khắc Bình và Đại tướng Cao Văn Viên nên không chính thức chia xẻ tin mật, tôi móc nối với trung úy Vũ Văn Mùi, em của bạn thân tôi là trung tá Vũ Văn Nho, Trưởng Phòng 2 Bộ TTM. Mùi thuộc trung tâm trận liệt và lãnh thổ, tin rằng những tin tức đó được cung cấp cho Phủ ĐU/TW/TB.”

Một hôm trung tá Vũ Văn Nho cho biết, ở Bộ TTM có gián điệp VC nằm vùng, Nho nói: “Đại tướng Cao Văn Viên gọi tôi lên văn phòng, đập bàn hét “Tài liệu của Bộ TTM, Tổng Tham Mưu Trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã đọc hết rồi”.

Cao Văn Viên nghi thủ phạm là Vũ Văn Nho, nhưng thực ra đó là Vũ Văn Mùi, em của Nho.

Ngày 22-5-1974, đến địa điểm hẹn thường xuyên, tôi được cho biết là người nữ giao liên của tôi bị bắt ở Hồng Ngự.

Ngày 23-5-1974, tôi được lịnh của cấp trên là phải ra căn cứ gấp vì có thể bị lộ. Cấp trên cho biết quy ước bắt liên lạc vào các ngày lẻ là 25, 27, 29.

Tôi đến điểm hẹn là một rạp chiếu bóng ở Mỹ Tho và được giao liên đưa ra căn cứ.

Trước khi ra căn cứ Ba Quốc dặn vợ và các con cứ khai thật tất cả những gì đã làm. Người con thứ hai khai là đã chụp hình các tài liệu và phụ giúp cha trong công việc của Phủ Đặc Ủy.

4). Ba Quốc giải cứu Nguyễn Văn Linh

Ba Quốc thuật lại, do lời khai của tên phản bội Huỳnh Kim Hiệp về hoạt động của 10 thành ủy viên của Đặc Khu ủy Sài Gòn-Gia Định, Ba Quốc được chỉ định theo dõi điều tra. Ngô Đình Nhu ra lịnh cho Phủ Đặc Ủy phối hợp với Nha An Ninh Quân Đội tổ chức truy bắt.

Trước tình thế khó xử, Ba Quốc lập một kế hoạch báo cáo cho An Ninh Quân Đội làm thế nào để y có đủ thì giờ báo động để các ủy viên lẫn trốn trước khi An Ninh QĐ mở cuộc hành quân.

Bí thư Đặc Khu ủy có bí danh là Trịnh Văn Thanh đang làm thợ sửa radio tại tiệm của Nguyễn Văn Ba ở đường Nguyễn Trãi.

Sau nầy đối chiếu lại mới biết Trịnh Văn Thanh là Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh.

 

5). Khám phá cán bộ Việt Cộng làm việc cho Việt Nam Cộng Hòa

“Tháng 5 năm 1972 cấp trên chỉ thị cho tôi phải lấy cho bằng được hồ sơ của hai cán bộ làm mật vụ cho địch ở hai tỉnh, cần nhất là tên họ và chức vụ”.

Đó là một công tác vô cùng khó khăn, vì tổ chức an ninh ở Phủ ĐU/TW/TB rất chặt chẽ. Làm việc ở ban nào thì chỉ biết trong phạm vi của ban đó mà thôi.

Tôi tìm cách kết thân với người giữ hồ sơ là Nguyễn Đăng Khiêm qua việc hùn hạp trồng trọt ở Long Khánh.

Qua Nguyễn Đăng Khiêm tôi phát hiện ra 2 cán bộ làm việc cho địch, một là bác sĩ dân y của Mặt Trận Giải Phóng tỉnh Quảng Đà, một là tỉnh ủy viên trong đảng bộ Tây Ninh. Danh sách được người giao liên là Nguyễn Văn Thương chuyển đi, nhưng rủi thay là Thương đã bị địch bắt. Cũng may là Thương đã hủy bản tin và nhất quyết không khai, mặc dù đã bị cưa chân 6 lần”.

6). Người giao liên bị cưa chân sáu lần mà vẫn không khai

Nguyễn Văn Thương sinh năm 1938 tại xã Lộc Hưng, quận Trảng Bàng, Tây Ninh. Giữ nhiệm vụ giao liên khu vực Bắc Sài Gòn, gồm Sài Gòn, Bến Cát (Bình Dương).

Tài liệu Việt Cộng cho biết, ngày 10-2-1969, bị máy bay Mỹ phát hiện, hạ thấp xuống định bắt sống nhưng Hai Thuơng đã dùng tiểu liên bắn rơi một chiếc máy bay lên thẳng và diệt được 3 tên lính Mỹ. Ngay sau đó, quân đội Mỹ huy động 72 chiếc máy bay lên thẳng chở toàn bộ Trung Đoàn 48 của Sư Đoàn 5 mới bắt được tên giao liên nầy sau khi bị anh ta bắn hạ 3 trực thăng bằng súng tiểu liên.

Sau nhiều lần mua chuộc bằng đô la, xe hơi, nhà lầu và gái đẹp nhưng vẫn không thu phục được Hai Thương, Mỹ ngụy đập nát hai bàn chân và sau đó họ đã 6 lần cưa sáu khúc xương của hai chân.

Hai tài liệu ngày hôm đó là của Ba Quốc (thiếu tướng Đặng Trần Đức) và của Hai Trung (thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn.

Việt Cộng thường hay “nổ sảng” để thần thánh hóa các điệp viên xuất quỷ hập thần của họ. Những công việc bí mật thuộc về tình báo gián điệp thường không có nhân chứng, nên tự do vẽ rồng vẽ rắn, thêm mắm dậm muối nhưng những điều quá lố không che đậy được người đọc, người nghe.

6* Vụ án Việt Cộng nằm vùng Thái Khắc Chuyên
 

Vụ án Thái Khắc Chuyên là những diễn tiến chung quanh vụ hạ sát thủ tiêu gián điệp đôi là thông dịch viên người Việt Nam tên Thái Khắc Chuyên, thuộc toán biệt kích B-57 của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ vào tháng sáu năm 1969.

6.1. Lịnh thủ tiêu

Ngày 20-6-1969, lịnh thủ tiêu gián điệp hai mặt Thái Khắc Chuyên được thi hành.

Khoảng 8 giờ tối, đại úy Robert Marasco và những nhân viên của ông thi hành lịnh của chỉ huy trưởng Lực lượng mũ xanh, đại tá Robert B. Rheault, là hạ sát và thủ tiêu Thái Khắc Chuyên.

Binh sĩ Ed Boyle đè giữ Thái Khắc Chuyên nằm duới sàn nhà trong khi Brumley chích mũi morphine thứ hai vào Chuyên. Vài phút sau, Chuyên nhắm nghiền đôi mắt, hơi thở yếu dần và mê mang như một xác chết.

Dán băn keo bịt miệng. Trói hai cườm tay ra sau lưng. Thân thể Chuyên được cuốn tròn trong chiếc poncho, và chi trong vài phút cuộn poncho được đưa lên xe tải chở ra bờ sông.

Hai quân nhân Mỹ khiêng cuộn poncho xuống tàu, trên đó đã có đại úy Robert Marasco và Williams chờ sẵn.

Chiếc tàu vượt qua những con sóng lớn, nhấp nhô hướng ra cửa biển. Bổng nhiên có tiếng rên nho nhỏ từ chiếc poncho, đó là tiếng của Thái Khắc Chuyên sau khi thuốc ngủ đã tan dần.

Brumley vội rút khẩu súng nòng dài có gắn ống hãm thanh, loại súng đặc biệt để trang bị cho nhân viên CIA, số súng không có ghi trong các danh mục vũ khí của quân đội, mà nó được đăng ký ở trung tâm Okinawa. Một phát súng bắn vào đầu Chuyên. Tiếng rên im bặt.

Đến nửa đêm, con tàu ra tới cửa biển, đảo Hòn Tre lù lù hiện ra ở phía xa. Ba người dùng dây xích thật nặng bó chặt chiếc poncho rồi ném xuống biển.

Tưởng đâu việc thủ tiêu gián điệp hai mang nầy là kết thúc câu chuyện nhưng không ngờ nó lại bắt đầu một vụ án mà tạp chí Time gọi là “vụ bê bối tình báo nghiêm trọng chỉ đứng sau vụ Mỹ Lai mà thôi”.

6.2. Thái Khắc Chuyên và trung sĩ Alvin P. Smith

Ngày 15-10-1968, trung sĩ Alvin P. Smith, mật danh là Peter Sands, được cử đến toán biệt kích Mỹ B-57, căn cứ tại Mộc Hóa, Kiến Tường. Một tuần lễ sau, Thái Khắc Chuyên, 31 tuổi nguyên quán ở miền Bắc Việt Nam, đến Mộc Hóa nạp đơn xin làm thông dịch viên. Alvin Smith tuyển dụng anh ta dưới số nhân viên SF7-166. Từ đó, hai người trở thành bạn thân với nhau.

6.3. B-57 và Dự án Gamma

Tháng giêng năm 1969, đại úy Robert Marasco, mật danh là Mike Martin, được cử đến Mộc Hóa chỉ huy toán biệt kích B-57 để thực hiện một công tác bí mật có tên là Dự án Gamma. Mục đích là trinh sát thu thập tin tức tình báo về hoạt động của Cục R, đầu não của tổ chức Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam. Cục R nằm ở vùng Mỏ Vẹt bên lãnh thổ Campuchia.

Công tác trinh sát thường xuyên vượt qua biên giới xâm nhập lãnh thổ nước nầy.

6.4. Sự mất tích của những cộng tác viên của toán B-57

Cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1969, số người Việt Nam cộng tác với toán biệt kích B-57, bổng nhiên mất liên lạc, không có những báo cáo như trước kia.

Một số nghi vấn được đặt ra, không loại bỏ có Việt Cộng nằm vùng trong toán biệt kích.

Đại úy Bob Marasco gặp khó khăn trong việc sưu tra lý lịch của Thái Khắc Chuyên, anh ta nói tiếng Anh rất thông thạo nhưng không phục vụ với một cơ quan nào trước đó cả.

6.5. Báo cáo của trung sĩ McIntosh

Trung sĩ Terry McIntosh chỉ huy một toán mũ xanh gồm 12 người đi phục kích, Thái Khắc Chuyên có mặt trong toán đó. Khi chạm địch, giao tranh dữ dội xảy ra nhưng Chuyên cứ loay quay với khẩu súng mà không bắn ra viên đạn nào cả. Máy truyền tin bị trục trặc nên không gọi pháo binh yểm trợ được. Phải vất vả lắm toán biệt kích mới thoát ra khỏi tầm đạn của địch.

Sáng hôm sau, kiểm tra lại thì thấy máy truyền tin bị ai đó bật qua kênh khác, sai tần số nên không hoạt động. Chuyên cho biết là súng của anh bị kẹt đạn nên không bắn trả lại được.

Một vài tuần sau đó, trong một cuốn phim tịch thu được của Việt Công ở bên biên giới Campuchia, thấy hình ảnh của Thái Khắc Chuyên hội họp với các sĩ quan Việt Cộng. Bạn thân của Chuyên là trung sĩ Alvin Smith xác nhận hình ảnh đó đúng là của Chuyên.

Thế là Chuyên bị bắt giữ để thẩm vấn suốt 10 ngày. Chuyên không vượt qua được máy phát hiện nói dối (Polygraph) nhưng anh ta không công nhận hoạt động cho Việt Cộng, kể cả việc tiếp xúc với một nữ giao liên ở Mộc Hóa mà anh thường xuyên tiếp xúc, đã bị theo dõi.

B-57 liên lạc với văn phòng CIA Sài Gòn để xin ý kiến xem nên giải quyết vụ việc như thế nào. CIA im lặng. Thêm một công điện mật và khẩn, nhưng CIA trả lời lập lờ.

Cuối cùng đại tá Robert B. Rheault, tư lịnh Lực lượng Đặc biệt ở Việt Nam ra lịnh hạ sát và thủ tiêu đương sự.

Ngày 20-6-1969 Thái Khắc Chuyên bị giết, ném thây xuống Biển Đông.

Sau khi thủ tiêu Thái Khắc Chuyên lực lượng mũ xanh dàn dựng một câu chuyện để giải thích lý do mất tích của Chuyên. Đó là Chuyên được cử đi thực hiện một công tác bí mật bên biên giới Campuchia để kiểm chứng lòng trung thành của Chuyên sau vụ điều tra 10 ngày.

6.6. Nổ bùng vụ án Thái Khắc Chuyên

Trung sĩ Alvin P. Smith là người tuyển dụng Chuyên, cũng là bạn thân của Chuyên và là người duy nhất phản đối việc hạ sát Chuyên.

Khi thấy Chuyên bị thủ tiêu, Smith lo sợ cho số phận của anh ta, có thể giống như Chuyên, giết người diệt khẩu.

Smith liền chạy đến văn phòng CIA Nha Trang tố cáo hành động giết người và xin được tỵ nạn. CIA Nha Trang báo cáo về CIA Sài Gòn và vụ việc được báo cáo lại cho tướng Creighton Abrams Jr. Tướng Abrams gọi đại tá Rheault về trình diện. Rheault trình bày với các viên chức cao cấp trong MACV, cho biết Thái Khắc Chuyên được cử đi công tác bên biên giới Campuchia không thầy trở về.

Tướng Abrams nổi giận vì bị đại tá Rheault nói dối để gạt ông ta, ông ra lịnh bắt điều tra những người liên hệ.

Đại tá Rheault, đại úy Ramasco và 6 quân nhân khác bị bắt để điều tra, và bị kết tội giết người và đồng lõa giết người. Tám người bị đưa về giam ở căn cứ Long Bình ngày 21-7-1969.

6.7. Xếp lại vụ án

Luật sư của các bị cáo đòi tướng Abrams và những lãnh đạo CIA ra trước tòa làm nhân chứng. Những người nầy từ chối ra tòa.

Theo chỉ thị của Toà Bạch Ốc (Tổng thống Nixon), Bộ trưởng Lục quân Mỹ, Stanley Reson, tuyên bố bãi bỏ vụ truy tố vì lý do an ninh quốc gia. Đó là các toán biệt kích B-57 hoạt động tình báo bên trong lãnh thổ Campuchia, vi phạm luật quốc tế và lộ bí mật quân sự.

Đại úy Marasco cho biết, ông là quân nhân thi hành mệnh lịnh của cấp trên nên không chịu trách nhiệm. Việc truy tố được bãi bỏ, tất cả các bị cáo được tự do.

Riêng đại tá chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt ở Việt Nam, Robert B. Rheault bị buộc phải nghỉ hưu. Ông từ trần ngày 16-10-2013 tại nhà riêng thuộc Owls Head, bang Maine hưởng thọ 87 tuổi.

Dự án Gamma ngưng hoạt động sau đó, ngày 31-3-1970.

6.8. Liên Xô phát động chiến dịch tuyên truyền ầm ĩ

Vụ án Thái Khắc Chuyên nổ ra bị cho là “bê bối tình báo chỉ đứng sau vụ Mỹ Lai mà thôi”, tạp chí Time nhận định như thế.

Liên Xô lợi dụng sự việc nầy phát động chiến dịch tuyên truyền rầm rộ. Đài phát thanh Moscow, Hà Nội và báo chí Cộng Sản tố cáo lực lượng mũ xanh Hoa Kỳ là những kẻ suy thoái tâm thần, bản chất cướp bóc, phá hủy, chà đạp phần còn lại của thế giới loài người tiến bộ. Tố cáo lính mũ xanh giết nông dân, không thương xót, không buông tha phụ nữ, người già và trẻ em Việt Nam.

7* Kết luận

Việt Cộng nằm vùng thời nào cũng có, ở đâu cũng có. Thời nay, ở nước ngoài cũng không vắng bóng cái đám lăng nhăng lố nhố đó.

Số phận của người dân nước Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam bị mất tự do, dân chủ, mất nước cũng do cái bọn sâu bọ nầy. Tệ nhất là quý vị trở cờ, quý vị háo danh, ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản sẵn sàng chịu nhục để bợ đít Việt Cộng, đau nhất là khi không còn lợi dụng được nữa thì bị “vắt chanh bỏ vỏ”. Quý vị trí thức “vịt kiều yêu quái” gồm các luật sư, giáo sư đại học, đại tá, trung tá trở cờ, lén lén lút lút, thập thập thò thò nâng bi Cộng Sản. Bề ngoài được ca ngợi yêu nước nhưng bên trong khinh vì bản chất phản bội.

Những bộ mặt nham nhở đó đã bị nhận diện, cô lập, tẩy chay…

 

Trúc Giang
Minnesota ngày 1-4-2014



*Xin cám ơn tác giả Trúc Giang đã có công sưu tầm và công bố một tài liệu thật có giá trị để làm một bài học lịch sử cho hậu thế.
     *Việt Nam Cộng Hoà đã “thua trận” vì hai nguyên nhân chính : Một là, tổ chức An Ninh Tình Báo yếu kém để bị địch xâm nhập như bài trên đã nêu ra. Và, hai là, các nhà lãnh đạo của cả 2 nền Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng Hoà của miền Nam đều theo đạo Thiên Chúa, cho nên đã để cho giáo triều Vatican thao túng quá sâu… với ý đồ kéo dài chiến tranh, bòn rút viện trợ của Hoa Kỳ ! Nhưng quan trọng nhứt là nhằm phá hoại chánh sách của Hoa Kỳ cùng khối SEATO bao vây Trung Cộng… Như vậy tức là Vatican đã đâm sau lưng người Mỹ.
     *Và vì chiến tranh kéo dài… làm tiêu hao nhiều tiền của và sinh mạng của binh lính Hoa Kỳ… khiến nhân dân HK bất mãn, nổi dậy đòi chấm dứt chiến tranh. Các cuộc bạo động lan tràn trên đường phố, đưa đến việc từ chức của TT Nixon. Nước Mỹ đã bị chia rẽ đến cùng tận vì chiến tranh VN. Quốc Hội HK cuối cùng phải cắt viện trợ, buộc Hành Pháp phải chấm dứt chiến tranh, bỏ rơi miền Nam vào tay CS năm 1975.  Đó là lỗi tại ai ?
     *Chung cuộc thì, mặc dù chiến tranh đã kết thúc, nhưng những hệ lụy để lại cho nước Mỹ thật khủng khiếp trở thành “Hội Chứng VN” kéo dài qua nhiều thế hệ !   Vậy ta có nên trách người Mỹ hay không ?
     GÓPGIÓ
Khai Dân TríTrúc Giang

2010/09/26

Câu chuyện thương tâm của một anh thương phế binh VNCH

 Câu chuyện thương tâm của một anh thương phế binh VNCH

Đúng ngày 27/7/2008, ngày thương binh liệt sỹ, tại số 15 đường 19a khu phố 4 Bình Hưng Hoà, Q. Bình Tân, có một thương binh cụt cả hai chân đã tự thiêu ngay trước cửa ngôi nhà đi thuê. Vì chuyện xảy ra lúc 12 giờ đêm nên không ai biết, không ai kịp đến dập tắt lửa. Đến khi mọi người ngửi thấy mùi thịt khét chồm dậy thì anh chỉ còn là một khôi tròn đen ngòm và…lạ thay, vẫn còn thở, tim vẫn còn đập! Người ta đưa anh vào bệnh viện chơ Rẫy, anh được vào phòng “săn sóc đặc biệt”, không ai được tiếp cận. Cho đến 16 giờ chiều 28 thì, bạn bè, đồng ngũ anh mới được báo tin: ”Anh đã qua đời vì bỏng tới 90% thì không có cách gì cứu nổi”. Và người ta đưa anh xuống Nhà Xác.

Sáng hôm sau, bạn bè, đồng ngũ và con trai của anh làm nghề đạp xích-lô đến để “xin”xác anh về thì….mọi ngưòi mới té ngửa ra là: Phải nộp….6 triệu đồng tiền săn sóc đặc biệt và ngủ một đêm khách sạn có gắn máy lạnh là “Nhà xác”!!??. Gia đình anh đã định bỏ cuộc và “biếu”luôn cái xác thiếu hai chân đó lại cho bệnh viện nhưng bạn bè, nhất là đồng ngũ, cấp trên cũ của anh, nay có điều kiện kinh tế khá hơn anh đã điều đình với bệnh viện để cuối cùng chỉ phải trả có…3 triệu ! Cái xác cháy 90% đã được dưa “về nhà” để làm các thủ tục một đám tang quân nhân hy sinh như điều lệnh của Quân Đội Việt Nam…Cộng Hoà! Thì ra, anh là thương-phế binh của phía “bên kia”!

Tớ đã cùng vợ xem vidéo clip đám tang của anh, cũng có dàn chào theo kiểu nhà binh (trừ bắn súng chỉ thiên) và hai vợ chồng tớ không cầm nổi nước mắt. Tuy nhiên tớ cũng phải kiểm chứng cẩn thận qua nhiều trang web trong và ngoài nước, thậm chí gọi điện hỏi một người bạn của bà xã đang sinh sống gần đó và một đứa cháu họ đang công tác tại một cơ quan đóng tại Bình Hưng Hoà, thì đều được xác định là chuyện này có thật 100%. Chỉ có điều, dân ở vùng này đều không biết anh là thương phế binh “nguỵ” vì từ khi về đấy ở, người ta chỉ gọi ông là “ông già cụt” chẳng ai biết được cái tên thật của anh là Nguyễn văn Báu, binh nhì thuộc Tiểu Đoàn 2, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân bị bắt buộc phải tử thủ ở An Lộc nên cụt cả hai chân !...Lý do anh tự thiêu thì ai cũng biết: Nghèo khổ và…tủi nhục vì sự lãnh đạm của “người đời”.

Cho nên NẾU TỚ CÓ QUYỀN……tớ sẽ phát triển và đưa vào đời sống cái chủ trương “Hoà Hợp và Hoà Giải”của Đảng và Nhà Nước bằng cách:

a-/ Sớm đưa ra một “tu chính án”trước Quốc Hội về các luật,các chính sách cần sửa đổi về thương binh, liệt sỹ để sớm coi những người đã chết của cả hai phía đều là “nạn nhân chiển tranh”, được đối xử như nhau hoặc chí ít, cũng được đối xử như mọi người dân thường “phía bên kia” đã may mắn không phải đi lính như anh Hoà.

b-/ Tớ sẽ nhân danh cá nhân đến thăm gia đình vợ con anh (vợ anh cũng bị tai nạn liệt giường) và tặng họ một món quà nho nhỏ thể hiện những gì mà các anh Triết, anh Dũng đã nói nhiều lần “Xoá bỏ quá khứ, hướng tới tương lai, hoà hợp, hoà giải" và nếu "ngoạn mục" hơn nữa là ra tận mộ anh (nhà anh cũng ở ngay sau nghĩa địa Bình Hưng Hoà thôi mà) đặt một bó hoa nho nhỏ. Việc này sẽ có tác dụng chính trị gấp trăm lần các khẩu hiệu “Hoà hợp, Hoà giải”mà chỉ thấy hoà hợp với mấy anh có tiếng tăm (cả tai tiếng) "việt kiều yêu nước….ngọt", kiểu Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy…

Tội nghiệp quá , nghèo quá còn bị thương tật nên ông ấy tự thấy mình là gánh nặng của vợ con nên tự sát , chắc vậy.


Chuyện về anh thương binh tự thiêu
Văn Quang

Người thương binh Việt Nam Cộng Hoà, một thời chiến đấu hy sinh một phần thân thể cho tự do dân chủ, rồi mất nước, các anh bị vùi dập trên một tấm thân thương tật lê lết trong cuộc sống cùng cực... hôm nay anh đã tự thiêu, một hành động đáng ngưỡng mộ nói lên sự hy sinh cuối cùng của anh tố cáo chế độ Cộng Sản độc tài.

Vào buổi sáng sớm tinh mơ ngày thứ ba 29 tháng 7 -2008 vừa qua, tôi nhận được cú điện thoại của anh Trần Văn Giáo (người mà anh em Thương phế binh (TPB) vẫn gọi là “Trưởng Làng” TPB Thủ Đức). Anh vẫn có giọng nói điềm tĩnh, nhưng sáng nay đầy tức tưởi:

– Anh ơi, đêm qua có một anh em mình tự thiêu.

Anh Nguyễn Văn Báu, thương binh Việt Nam Cộng Hòa khi còn sống cụt hai chân.

Tôi hiểu ba tiếng “anh em mình” ở đây có nghĩa là một anh thương binh VNCH nào đó. Tôi chưa kịp hỏi thêm, anh Giáo đã tiếp:

– Hiện nay đang nằm ở phòng cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy.
– Tình hình thế nào rồi?
– Rất nguy hiểm, chắc khó qua khỏi.
Trong đầu tôi bị ám ảnh bởi hai tiếng “tự thiêu”, chắc là có điều gì bất mãn nên tôi hỏi ngay:
– Lý do nào anh ấy… tự thiêu? Có phản đối điều gì không?
– Không phản đối ai cả, chỉ vì cái nghèo và bệnh tật của mình. Không muốn làm khổ vợ con. Bây giờ gia đình anh ấy chưa có tiền đóng tiền bệnh viện.
Việc này trong khả năng chúng tôi có thể lo được, song tôi chưa rõ số tiền của độc giả và đồng đội ở nước ngoài gửi tặng, anh Giáo còn giữ bao nhiêu vì từ Tết tới nay đã chi nhiều rồi. Tuy nhiên tôi vẫn trấn an:
– Anh yên tâm, mình sẽ lo cho anh ấy. Tôi sẽ lên bệnh viện ngay bây giờ.
Anh Giáo nói có một số anh em đang ở đây, nếu muốn đi, sẽ cùng đi luôn.
Thẻ quân nhân QL/VNCH vẫn theo anh cho đến ngày anh tự thiêu.
Lúc này tôi mới nhớ ra rằng chưa biết tên người tự thiêu là ai. Thật ra là ai thì cũng thế thôi, nhưng điều cần biết vẫn cứ phải biết:
– Anh ấy tên là gì nhỉ?
– Anh Nguyễn Văn Báu, thương binh cụt hai chân. Ở Bình Hưng Hòa. Anh xem trong danh sách những kỳ tặng quà vừa rồi có tên đấy, anh ấy được tặng một triệu đồng.
 

Trong khi chờ các anh em đến gặp, tôi mang danh sách ra tìm tên người tự thiêu.

Chúng tôi thường phải có những địa chỉ rất cụ thể để tìm nhau cho dễ và tránh thất lạc nếu có gửi quà thì đích thân anh em mang đến.

Người tự thiêu là Nguyễn Văn Báu, trước đây là Binh 2, của Tiểu đoàn 52, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân. Anh bị thương tại mặt trận Bình Long- An Lộc năm 1972. Địa chỉ hiện nay là nhà thuê ở số 15, Đường 19A, Tổ 69, Khu Phố 4, Bình Hưng Hòa A, Quận Bình Tân, TP. Sài Gòn. Điện thoại là số gọi nhờ nhà hàng xóm số 08- 4087517.

Nửa giờ sau, anh Giáo cùng vài anh em thương binh đến nhà tôi. Hôm đó tôi có dự định gặp một số anh em để bàn về vài việc phải làm. Nên có cả Đoàn Dự và Hàm Anh cùng đến.

Đến bệnh viện để được chờ...
Hai chiếc xe gắn máy ba bánh, loại xe dành cho người tàn tật, của anh TB Tân Lưu Thạnh và Nguyễn Văn Đẹp đậu sẵn trước cầu thang chung cư. Nguyễn Văn Đẹp vẫy tôi:
– Anh đi xe này với em nhá.

Anh Đẹp, chúng tôi thường gọi đùa là Robinson, vì khi giã từ quân ngũ tháng 4 năm 1975, về thành phố, không một mảnh đất dung thân, ở đâu cũng bị đuổi, anh liền mang gia đình ra sống giữa cái cù lao của dòng sông Sài Gòn. Trên đường đi Thủ Đức có thể nhìn thấy khu cù lao này chơ vơ giữa ngã ba sông. Nơi không có làng xã nào dính vô, đồng nghĩa với không có địa chỉ, không có hộ khẩu, và cũng chẳng có chứng minh nhân dân… Trong người anh chỉ có mỗi cái Thẻ Căn Cước Quân Nhân chứng nhận anh là… người. (Tôi đã có lần tường trình với bạn đọc trong loạt bài này). Anh sống cùng gia đình như giữa hoang đảo. Nhưng hai năm gần đây, vì cần đất làm khu giải trí hay công nghiệp gì đó nên người ta “đền bù” cho anh một số tiền rồi đưa gia đình anh “lên bờ”.

Tôi leo lên chiếc xe ba bánh, lần đầu tiên tôi được đi trên chiếc xe gắn máy ba bánh của người tàn tật. Loại xe đặc biệt nên hai chiếc ống nhún rất tốt làm chiếc xe lắc tới lắc lui, ngồi phía sau nghiêng ngả giữa lòng thành phố đầy những lô cốt. Chúng tôi đến bệnh viện Chợ Rẫy trong không khí lộn xộn, hàng chục khu linh tinh đầy rẫy những người bệnh, người đưa bệnh, người chờ được khám bệnh... Kẻ nằm, người ngồi ngay tại chân cầu thang, trải miếng vải hay cái chiếu, túm tụm quanh các vỉa hè… dưới con mắt lạnh lùng của các bác bảo vệ. Hầu hết những người đó là từ các tỉnh thành lân cận đến để… được chờ đợi. Nếu không biết trước chỗ nằm của người bệnh, khó tìm ra.

Một anh thương binh đêm qua đã từng tới đây, hướng dẫn chúng tôi gặp hai người con anh Báu. Người con trai lớn là Nguyễn Thành Tâm, sinh năm 1979 đã có vợ và hai con, làm nghề đạp xích lô. Người con gái út là Nguyễn Thanh Hiếu, sinh năm 1983, làm công nhân của công ty may Đại Quang cũng đã có 2 con. Còn một người chị nữa, chồng chết, đang đi bán vé số. Bà vợ anh Báu bị tai nạn đứt gân nhượng chân nên không đến bệnh viện được. Nhìn nét mặt hai người con anh Báu như vẫn còn thất thần, đau đớn vì tai nạn kinh hoàng đêm trước của bố, người con trai nước mắt lưng tròng, kể:
– Nhà em là nhà đi thuê, ở xóm lao động nghèo sau nghĩa trang Bình Hưng Hòa mà mỗi tháng phải trả một triệu hai. Mới đây chủ nhà lại đòi tăng lên triệu rưởi. Dưới nhà chật, chỉ đủ để hai chiếc xe đạp, xe gắn máy cũ. Chúng em ngủ trên gác xép. Bố em cụt hai chân nên trải chiếu nằm dưới nhà cho tiện. Gần một tháng vừa qua bố em bị bệnh tai biến, hai chân lại đau nhức và nhất là sạn thận hành hạ. Ông nằm rên suốt ngày mà cố giấu con cháu. Ông đau lắm, chúng em biết, đang cố chạy tiền đưa ông đi chữa bệnh.

Tôi nói ngay:
– Sao anh không cho chúng tôi biết?
Người con trai và con gái đang đợi tại nhà thương đem xác anh Báu về.

Người con trai lắc đầu:
– Các bác, các anh còn giúp nhiều người khác, làm sao cúng em dám xin thêm, các bác giúp mấy lần đã làm gia đình em biết ơn lắm rồi. Có mấy chú thỉnh thoảng cũng đến cho, nhưng bạn thương binh cũ của bố em có ai làm ra tiền đâu. Các chú cũng chỉ bớt xén cho vài ba chục thôi.

Thật sự lúc này tôi có cảm tưởng như mình có lỗi với gia đình anh, dù biết rằng đó là điều tôi không thể với tới được. Những người thương binh đứng bên tôi cúi đầu, dường như họ cùng chung một ý nghĩ như tôi. Chỉ bởi một ý nghĩ “nếu mình biết trước mà giúp đỡ, chắc tai nạn đã không xảy ra”.
 

Hai chiếc chân cụt quẫy đạp trong đống lửa

Người con trai anh Báu kể tiếp:
– Đêm 27 tháng 7, vào khoảng 12 giờ, hàng xóm la lên có người cháy. Lúc đó gia đình em ở trên lầu mới đổ xô xuống. Một người đang cháy bùng bùng trong khoảng đất trống nhỏ trước cửa nhà. Khi nhìn thấy hai chiếc chân cụt quẫy đạp giữa đống lửa, lúc ấy gia đình em mới biết đó là bố em. Mọi người nhào vô cứu, nhưng ông đã cháy gần như 90% rồi. Tuy vậy, vẫn còn có thể dập tắt ngọn lửa được. Gọi xe cứu thương đưa ông vào bệnh viện. Nhưng theo bác sĩ cho biết thì không hy vọng gì cứu sống. Toàn thân ông cháy đen. Ông tưới xăng lên người, nhưng sợ cháy nhà, con cháu lại phải thường cho người ta, nên bò ra miếng đất trống trước cửa tự thiêu.

Hai người con lặng lẽ khóc. Cô con gái út sụt sùi:
– Hàng ngày bố cháu thường phải bò chứ có đi được đâu. Ông cố giấu mọi bệnh tật, mọi nỗi đau. Chỉ có lũ trẻ là biết ông nội đau, ông rên rỉ. Khi nào có mấy chú là “lính cũ” đến chơi là lúc bố cháu tươi tỉnh, lại râm ran nói về những chuyện chiến đấu, chuyện chung sống với anh em ngày xưa. Các chú ra về là bố cháu lại bó gối ngồi trước cửa nhìn trời!

Là công nhân nên cô gái nói năng có phần trôi chảy và có vẻ như cô con gái út thông cảm với tâm trạng bố mình nhiều hơn cả.

Tôi nói với anh Giáo mang hai trăm đô la Mỹ, đổi thành tiền VN đi nộp tiền “viện phí”. Người con trai kể:
– Trước khi vào bệnh viện, họ đòi ba triệu, chúng em chỉ mới vay muợn được một nửa, họ cho nằm, nhưng báo trước sẽ phải nộp sáu triệu.
 

Số tiền hai trăm đô la đổi được hơn ba triệu, vừa đủ cho khoản phải nộp đầu tiên. Thôi thì đến đâu lo đến đấy vậy.

Đợi mãi, mười giờ rưỡi sáng mới cho thăm bệnh. Anh Báu còn nằm trong khoa “săn sóc đặc biệt”, người con trai đưa tôi lên lầu 4. Nhưng cánh của song sắt vẫn đóng chặt. Một chị to béo ngồi canh cửa, chỉ những người có giấy chứng nhận nuôi bệnh mới được vào. Trong trường hợp của anh Báu thì người nuôi bệnh cũng chỉ được đứng ngoài nhìn qua khung kính. Tôi đã “lỉnh” được vào trong khu cửa sắt, nhưng rồi chị to béo gác cửa cũng lôi tôi ra. Tôi đi bài ca con cá: “Chị vui lòng cho tôi vào nhìn mặt anh bạn già của tôi một vài phút thôi”. Vẻ mặt chị gác cửa trở nên dữ dằn: “Không được”. Thấy tôi đứng tần ngần chị nạt: “Có đi không thì bảo”. Tôi vẫn đứng đó, bởi đứng ngoài khung cửa sắt vẫn là quyền của tôi. Chị lườm tôi, tôi vẫn “ngây thơ” nhìn chị, chẳng buồn cãi lý sự với những người như thế làm gì, còn đầy rẫy những nhân viên trong những cơ quan có tí quyền hành còn ngang ngược hơn. Tôi nghĩ giá mà có cái thẻ nhà báo thì may ra “thuyết phục” được chị này. Nhưng tôi chả là cái “thá” gì ở đây, đành quay xuống dưới nhà cùng anh em ra về vậy.

6 triệu một cái xác
Buổi chiều, khoảng 4 giờ, tôi lại nhận được tin báo: “Anh Báu mất rồi”. Đó là điều chúng tôi cũng đã tính đến từ trước. Người con của anh Báu đã nói, nếu bố cháu mất, phải có đủ sáu triệu nộp cho bệnh viện mới được mang xác về. Đó là quy định của bệnh viện. Một anh thương binh bàn:
– Thì cứ nói bố tôi đã tự thiêu vì không có tiền chữa bệnh, nhà tôi không có đủ tiền. Nếu không cho mang về thì chúng tôi xin “biếu” bệnh viện cái xác đó vậy.
 

Lời bàn có lý, nhưng đó chỉ là “nước cờ liều”, chúng tôi không nỡ nào để việc đó xảy ra. Bệnh viện cứ đòi, tất nhiên chúng tôi phải lo để mang được thi hài anh Báu về với gia đình.

Cho nên ngay buổi trưa hôm đó chúng tôi đã cùng nhau ngồi lại bàn bạc với nhau về số tiền mà độc giả của Tuần Báo Thời Báo ở Canada chuyển về giúp đỡ TPB và người nghèo. 200 đô Canada đã được trả “viện phí”, chúng tôi đồng ý trích thêm 300 nữa để gia đình anh Báu có thể lo hậu sự.
 

Rất may, khi biết gia đình nạn nhân quá nghèo, bệnh viện đã bớt cho 3 triệu. Số tiền còn lại mua áo quan, thuê mướn dịch vụ tang lễ cũng là tạm đủ cho lúc ban đầu. Lúc này mới thấy được sự giúp đỡ của độc giả và đồng đội ở nước ngoài giá trị đến như thế nào.

Bên quan tài người đồng đội
Thương binh VNCH cụt hai chân, người chống nạn đền tiễn đưa thương binh tự thiêu.
Buổi sáng hôm sau, chúng tôi lại cùng nhau đến từ biệt người bạn đồng đội. Nhà anh ở tuốt sau nghĩa trang Bình Hưng Hòa. Tôi ngồi sau xe Anh TB Trần Văn Bảo, một chân gỗ, chuyên chạy xe ôm. Hàm Anh lại nhảy lên chiếc xe 3 bánh của Rô Bin Sơn Nguyễn Văn Đẹp.

Khi chúng tôi đến nơi thì chiếc rạp đã được dựng lên ngay mặt đường hẻm. Chừng hai chục anh em TPB đã có mặt, chỉ cần nhìn những chiếc xe lăn, xe ba bánh xếp hàng bên dãy rào tre là đủ biết đám tang này… đặc biệt như thế nào. Người què, người cụt, người đui cùng ngồi lặng lẽ quanh hai chiếc bàn tròn mới thuê. Thấy chúng tôi đến họ đứng cả dậy. Sợi dây ân tình của chúng tôi đã bắt nguồn từ lâu. Có anh cụt cả hai dò đang ngồi trên những chiếc ghế nhựa cũng lồm cồm tìm cách đứng lên. Tôi ôm từng anh em lâu ngày mới có dịp gặp lại.

Sau đó tôi và anh Giáo vào chia buồn cùng gia đình người quá cố. Gian nhà chật hẹp, chỉ vừa đủ chỗ đặt cái quan tài ngay cửa ra vào và hai người đứng hai bên. Vợ anh Báu khóc nức nở, không thể nói lời cảm tạ. Tôi nói ngay:
– Toàn bộ số tiền giúp gia đình hôm nay là của độc giả các báo ở nước ngoài và anh em đồng đội ở Canada, ỡ Mỹ, ở Úc… gửi về. Tôi sẽ chuyển lời cảm ơn của gia đình chị đến với những ân nhân của chúng ta. Còn chúng tôi rất ân hận vì đã không biết rõ hoàn cảnh gia đình ta nên không giúp kịp thời, để chuyện này xảy ra, chúng tôi ân hận lắm.

Tôi và anh Giáo đến trước bàn thờ, thắp hương, nhìn hình ảnh người đồng đội của chúng tôi vừa nằm xuống. Bỗng dưng tôi có cảm tưởng như đó là cái chết của một người “anh hùng”, không khác là bao với những cái chết của những vị tướng lãnh đã tuẫn tiết vào những này 30-4-1975. Cuộc sống của người Thương Binh này kéo dài hơn 30 năm trong muôn điều khốn khó, bệnh tật, đau đớn. Nỗi khổ ấy liệu có ai biết, ai thông cảm, ai nhớ tới? Họ âm thầm chịu đựng và rồi cũng tự kết liễu đời mình, không muốn làm phiền cho con cháu. Chọn một chỗ để chết không liên lụy tới ai. Cái chết quả là dũng cảm.

Ngay cả những người sống quanh anh có lẽ cũng quên anh là một thương phế binh, chỉ biết anh là “ông lão cụt chân”. Khi Hàm Anh hỏi:
– Vậy chính quyền địa phương có biết anh là Thương Binh và có giúp đỡ gì gia đình chị không?
Vợ anh Báu lắc đầu:
– Chẳng biết họ có biết hay không, nhưng họ… nhiều việc quá nên không giúp đỡ gì bao giờ.
– Thế gia đình chị có được ghi vào “diện” gia đình nghèo khó không?
Lại lắc đầu, chị Báu hạ thấp giọng:
– Không thấy ai nói gì cả. Có lẽ những gia đình được chính quyền ở địa phương quan tâm là những gia đình chính sách, vợ con, con cháu cán bộ, thương binh liệt sĩ “bên này” thôi…

Thật ra đây cũng là chủ trương chung ở tất cả các địa phương chứ chẳng riêng gì ở một nơi đông dân cư như TP. Sài Gòn.

Vẫn giữ đúng “lễ nghi quân cách”
Vẫn theo những nghi lễ quân cách tiễn đưa người hy sinh.
 Những anh em thương binh khác cũng lần lượt, hai người một cặp, vào thắp hương cho đồng đội quá cố. Người què leo lên ghế, người chống nạng thắp nhang. Cuối cùng là một động tác từ biệt, chào kính vẫn còn giữ đúng “Lễ nghi quân cách”. Họ giơ tay ngang mặt chào theo kiểu “nhà binh”, rất trang nghiêm và trên nét mặt của mỗi người đều hiện rõ một vẻ tự hào, như cái gạch nối không bao giờ hết của một truyền thống ăn vào mạch máu, chảy từ trong đáy sâu tâm khảm. Chính từ những thái độ này mà nghĩa tình đồng đội càng thêm gắn bó.

Khi quay ra, tôi thấy trên bàn có một chiếc bì thư, anh Ký (người lính nhảy dù cụt tay lái xe ôm) cho biết, đó là bì thư để anh em đến viếng có bao nhiêu thì cứ việc bỏ vào đó, không ghi tên, cũng không biết ai đi viếng bao nhiêu.

Tôi hỏi một anh TB cụt một chân ngồi trên chiếc ghế nhựa đỏ:
– Vậy anh để bao nhiêu?
Anh gãi đầu có vẻ bẽn lẽn:
– Tối hôm qua em bán vé số được sáu chục. Chúng em ăn cơm rồi còn ba chục em để vào bì thư. Hy vọng sáng nay bán được kha khá, em để luôn. Nhưng hồi này xăng lên giá nên cũng “hẻo” lắm, chưa thêm được đồng nào.

Tôi nói với anh em, lần này để chúng tôi lo phần hậu sự, nhưng anh em nhất định không nghe, họ nói đó là tấm lòng của mỗi người, không thể thiếu được. Chiếc bì thư lại được đưa đến cho gia đình anh Báu. Người con trai anh tiết lộ riêng với tôi là được bảy trăm hai mươi hai ngàn. Tôi thật sự xúc động vì cái “hai ngàn lẻ” đó. Của ai? Không biết. Nhưng tấm lòng quá lớn.

Hai giờ chiều ngày 31-7-2008 tức ngày 22 tháng 6 năm Mậu Tý, chúng tôi đến đưa anh Nguyễn Văn Báu về nơi an nghỉ cuối cùng. Những chiếc nạng, những chiếc xe lăn, xe 3 bánh, người cụt hai dò di chuyển trên hai chiếc ghế gỗ… lặng lẽ trên con đường nhựa đầy những ổ gà, ổ voi, mấp mô. Từ nhà anh ra nghĩa trang Bình Hưng Hòa gần lắm, anh được hỏa táng lần thứ hai. Tôi không biết có phải tôi vừa đưa tiễn một người “anh hùng thầm lặng” hay không? Điều đó hoàn toàn không cần thiết đối với anh, , cả cuộc đời chưa bao giờ anh nghĩ tới hai tiếng này, nhưng sự thật trong cuộc sống và cái chết là như thế.

Xin vĩnh biệt người đồng đội dũng cảm.

Xin gọi tên Anh lấn cuối:NGUYỄN VĂN BÁU,Sống :góp máu gìn giử giang sơn ,Chết:dưới quyền Ngủ Hổ Đại Tướng.

Vỉnh biệt Anh !!!

Văn Quang

Khai Dân TríVăn Quang