Showing posts with label Nông Thôn. Show all posts
Showing posts with label Nông Thôn. Show all posts

2016/07/17

Vụ mua bán chồng kỳ quái tại "nông thôn mới" ngày nay

Vụ mua bán chồng kỳ quái tại "nông thôn mới" ngày nay

Trong vài số báo vừa qua, tôi đã tường thuật cùng bạn đọc nhiều chuyện “khốn nạn” ở nông thôn VN ngày nay, hầu hết là do các quan thôn ấp “sáng tạo” ra để kiếm tiền dân, kể cả những người cùng cực cũng không tha. Hầu như mỗi địa phương đều có pháp luật riêng của mình. Lãnh đạo được xem như lãnh chúa thời xa xưa.

Để bớt căng thẳng và thay đổi không khí hắc ám ở thôn quê, trong bài này tôi kể với các bạn một vài chuyện vui cũng có, buồn cũng có, nhưng tất cả vui hay buồn đều chứng tỏ nền luân thường đạo lý ở nông thôn ngày nay – được gọi cái mỹ từ là “nông thôn mới.” Nó mới ở chỗ nào? Phải chăng nó mới con người sống theo bản năng, thích gì làm nấy, xóa bỏ hết đạo lý truyền thống của dân tộc từ ngàn xưa?

Bởi thế nên mới có chuyện hai người đàn bà nhà quê đặc quyết định đổi chồng cho nhau, câu chuyện khá kỳ quái này còn được quan chức địa phương chứng kiến. Thế mới loạn. Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch.

Một người đàn bà bị chồng giết
Rạng sáng 18 tháng 6 vừa qua, người dân thôn Vĩnh Tiền bỗng xôn xao bởi hung tin bà Loan bị sát hại trong khi chồng là ông Nguyễn Văn Cốc đã biến mất. Trong túp lều lạnh lẽo, chỉ có mỗi bà Loan đã tắt thở nằm trên giường, thương tích đầy mình. (Theo báo Pháp Luật đưa tin)

Sau đó, cơ quan chức năng nhận được tin báo: “Ông Cốc đã về nhà bên Lai Vung, Đồng Tháp. Ông Cốc gọi điện thoại tự thú là đã giết vợ và cũng đã uống thuốc trừ sâu để tự tử.”

Túp liều của bà Loan, ông Cốc được dựng lên tạm bợ bằng lá dừa nước, xung quanh cây cối um tùm, rậm rạp, muốn vào phải gửi xe cách đó chừng 500 mét. Cuộc sống hai vợ chồng dường như tách biệt với thế giới bên ngoài.
Túp lều ông Cốc và bà Loan từng sống
Túp lều ông Cốc và bà Loan từng sống.
Gọi là vợ chồng nhưng thực tế bà Loan và ông Cốc sống với nhau theo kiểu "già nhân ngãi, non vợ chồng" chứ không có đăng ký kết hôn hay cưới hỏi gì. Hằng ngày, ông Cốc làm thuê làm mướn, chăm vườn tược, mò tôm bắt cá, miễn sao có tiền lo cho hai vợ chồng.

Phần bà Loan, theo người dân địa phương, do được chồng lo toan mọi bề, mặc dù cuộc sống khó khăn nhưng bà Loan thường xuyên đi nhậu. Khi nhậu, bà Loan toàn ngồi cùng "cánh mày râu," những bữa nhậu thường chỉ có bà là phụ nữ. Khi đã "đủ đô," bà Loan gọi chồng tới chở về.

Cũng có bữa ông Cốc chở bà đến tận đám nhậu. Trong lúc vợ nhậu thả ga, ông đi kiếm nhà hàng xóm nằm võng đong đưa chờ vợ nhậu tàn hoặc gọi điện thì chạy xe qua chở về.

Do vợ mỗi lần nhậu lại thường cặp kè với một người đàn ông khác nên nhiều lần hai vợ chồng to tiếng. Khi cãi nhau, bà Loan không cho ông Cốc vào nhà và thẳng thừng tuyên bố đất đai ruộng vườn là của bà, bà muốn làm gì thì làm.

Ông Cốc có bữa phải bưng tô đi xin cơm nhà hàng xóm ăn. Đã nhiều lần ông Cốc nói sẽ giết bà Loan nhưng không ai tin. Không ngờ, nỗi uất hận sau nhiều ngày chất chứa đã khiến người đàn ông vốn hiền lành trở thành kẻ sát nhân.

Theo nguồn tin từ cơ quan điều tra, khuya hôm đó, ông Cốc dùng búa đánh bà Loan. Khi nạn nhân tắt thở, ông Cốc để thi thể vợ nằm trên giường, đắp mền, mắc mùng cẩn thận rồi mới bỏ đi.

Sau khi về đến nhà ở Đồng Tháp, ông Cốc liền uống thuốc tự tử rồi báo tin mình giết vợ cho một người ở gần nhà bà Loan. Nhờ người nhà cấp cứu kịp thời nên ông Cốc được đưa đi cấp cứu. Hiện người đàn ông này đã qua cơn nguy kịch, sức khỏe dần hồi phục.

Cơ quan điều tra thêm về vụ việc này còn phát hiện nhiều tình tiết khôi hài khác nữa. Thật ra chuyện bắt đầu từ khi hai bà ở Xã Vĩnh Tiền này đã thực hiện một cuộc đổi chồng rất kỳ quái.

Tại sao có cuộc đổi chồng công khai, địa phương cũng chứng kiến?

Theo báo Thế Giới Mới ngày 3 tháng 7, 2016 vừa qua cho biết thêm chi tiết, cơ quan chức năng phát hiện thêm sự việc “ly kỳ” khác: người phụ nữ là nạn nhân đã từng “bán chồng.”

Người phụ nữ đem “gả” chồng nói trên là bà Trần Thị Loan (43 tuổi), ở tại khóm Vĩnh Tiền, phường 3, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.

Theo cơ quan điều tra, ông Đỗ Văn Bình (47 tuổi, là người chồng đầu tiên của bà Loan) gần 30 năm về trước, lúc đó ông chỉ mới là thanh niên 18 tuổi thì cha mẹ đã giục cưới vợ. Người được cha mẹ chọn lựa chính là Loan - cô gái nhà sát bên, tuổi mới tròn 16. Hai người nên duyên chồng vợ với tài sản để lập nghiệp là mấy công ruộng quanh năm nhiễm phèn, mặn.

Cuộc sống bình yên hạnh phúc kéo dài được vài năm. Đến năm 1997, đứa con trai lớn lên 7, đứa nhỏ lên 5 thì tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Nguyên nhân cũng từ chuyện làm ăn không được thuận lợi, thua lỗ triền miên. Càng sống chung với vợ, ông Bình càng nhận ra đây không phải là người phụ nữ của đời mình. Hai người gần như sống ly thân.

Sau đó ông Bình gặp được người phụ nữ khác, đó là bà Trần Thị Thu (54 tuổi, quê ở Đồng Tháp). Tình cảm của hai người lớn mãi mà không biết toan tính như thế nào để được ở bên nhau vì bà Thu vẫn còn chồng, con, còn ông Bình thì ngoài vợ và hai đứa con trai, vợ chồng ông còn một khoản nợ chung chưa giải quyết được. Lấn cấn mãi, cho tới lúc bà Thu quyết định ly hôn chồng, rồi cả ba người gặp nhau, ba mặt một lời.

Buổi gặp mặt “trọng đại” đó, còn có cha mẹ của ông Bình và cha mẹ của bà Loan. Trước mặt tất cả mọi người, bà Thu yêu cầu bà Loan “ra giá” để nhượng chồng. Bà Loan không phải vừa, ngoài yêu cầu bà Thu trả nợ giùm mình, bà Loan còn đòi một số tiền hoặc vàng để làm vốn.

Chưa hết, bà Loan còn đặt điều kiện, nếu trong vòng nửa tháng bà Thu không nộp đủ tiền thì sẽ “bắt” chồng lại.

Cuối cùng, bà Thu đồng ý trong vòng một tháng sẽ đưa cho bà Loan 5 chỉ vàng 24k và trả giúp một nửa số nợ là 6 triệu đồng. Phân nửa còn lại, ông Bình vẫn phải có trách nhiệm chi trả.

Nội dung hai bên đồng ý cùng nhau những điều khoản gì, bà Thu đều ghi rõ, đầy đủ trong đơn, có sự chứng kiến của… chính quyền địa phương lúc bấy giờ. Ngoài những điều khoản liên quan đến tiền bạc, hai bên cùng cam kết cho nhau tự do lấy chồng lấy vợ, không được khiếu nại về sau. Hai đứa con trai thì chia ra, người chồng nuôi đứa lớn, người vợ nuôi đứa nhỏ.

Điều lạ hơn ở đây là có chính quyền địa phương chứng kiến (theo báo Thế Giới Mới – VN). Như thế có nghĩa là cuộc đổi vợ đổi chồng này coi như chính thức vì được địa phương thừa nhận. Làm như vậy có hợp tình hợp pháp không hay chính quyền địa phương tiếp tay cho những chuyện vô luân thường đạo lý ở nông thôn mới ngày nay?!
Giờ có ai trả tui 10 cây vàng tui cũng không đổi ông chồng này của tui đâu. Tui nói thiệt đó.
Bà Thu hạnh phúc bên chồng, bà nói: “Giờ có ai trả tui 10 cây vàng tui cũng không đổi ông chồng này của tui đâu. Tui nói thiệt đó.”.
Sau “phi vụ mua bán” chồng, cuộc đời mỗi người lại rẽ sang một hướng khác nhau. Bà Thu, ông Bình sống hạnh phúc bên nhau và ít lâu sau, họ đón đứa con gái nhỏ ra đời. Cuộc sống của hai vợ chồng vẫn quanh quẩn bên ruộng lúa, đàn vịt và nghề sửa máy của ông Bình.

Gần 20 năm sống chung, bà Thu chưa một lần hối hận về quyết định táo bạo của mình ngày xưa. Bà tâm sự, “Giờ có ai trả tui 10 cây vàng tui cũng không đổi ông chồng này của tui đâu, tui nói thiệt đó.” Nói rồi, vợ chồng họ nhìn nhau cười âu yếm. Cuộc sống khá hạnh phúc.

Trái lại bà Loan lâm vào thảm cảnh
Còn về phần bà Loan, sau khi kết thúc vụ “mua bán chồng,” cuộc đời bà gặp liên tiếp những sóng gió. Đến cuối cùng, bà bị chính người đàn ông mình coi là chồng thứ tư đánh đến chết.

Người chồng thứ tư này là ông Nguyễn Văn Cốc (58 tuổi, thường trú huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp)
Trước ngày bà Loan mất khoảng hai ngày, người dân khóm Vĩnh Tiền thấy ông Cốc cầm chén đi xin cơm ăn. Hỏi thăm thì ông uất nghẹn mà rằng, ông đi làm vất vả về bà Loan không nấu cơm cho ăn mà còn hoạch họe. Nhưng điều làm ông Cốc điên tiết lên là những buổi nhậu bất tận của bà Loan và mối quan hệ lằng nhằng với những người đàn ông khác.

Trong khi ông Bình hạnh phúc bên bà Thu thì bà Loan lại lận đận hơn. Bà có quan hệ tình cảm với nhiều người đàn ông. Khi không hợp hoặc nhận thấy có những bất đồng, bà Loan lại chủ động chia tay để đến với người khác.

Trong hai năm chung sống với bà Loan, ông Cốc vẫn thỉnh thoảng về nhà nên vợ con ông không hề hay biết mối quan hệ ngoài luồng này. Mãi cho đến khi ông Cốc uống thuốc trừ sâu tự tử sau khi gây ra án mạng, vợ con người đàn ông này mới bàng hoàng biết được những bí mật của chồng, cha mình.

Bà Huỳnh Thị Thiệt (90 tuổi), một người dân sống lâu năm tại thôn Vĩnh Tiền nói, “Tui từng này tuổi mà cũng chưa thấy chuyện gì kinh thiên động địa như vậy. Một người đàn bà nhận tiền vàng của người ta để bán chồng mình đi, mới nghe cứ tưởng nói chơi, ai dè có thiệt. Kết cục lại mất mạng oan uổng như vậy.”

Tuy nhiên chuyện con chung con riêng thường gây ra mâu thẫn giữa các cặp vợ chồng. Xung đột vì “con anh đánh con tôi” hay là “con anh con tôi đánh con chúng mình.” Như chuyện gần đây vợ cầm dao đâm chết chồng.

Con riêng đánh nhau, vợ cầm dao đâm chết chồng
Chị Mai và anh Nguyễn Văn Hào đến với nhau sau khi cả hai đã li dị trước đó không lâu. Cả chị Mai và anh Hào đều có con riêng, sau khi về cùng nhà sống chung tại phòng trọ ở xã An Phước, huyện Long Thành, chỉ con riêng của Mai theo mẹ, con riêng của anh Hào sống với ông bà Nội.

Chiều 28 tháng 6, 2015, chị Mai đi làm về thì nghe con riêng của mình kể lại chuyện bị N.T.M.H (con riêng của anh Hào) đánh. Mai ngay sau đó qua nhà bố mẹ chồng để tìm gặp cháu H với mục đích nói chuyện. Tại đây Mai gặp chồng trong cơn say rồi xảy ra cãi cọ và bị đánh. Về đến phòng trọ cả hai tiếp tục cãi vã gay gắt hơn, Hào tiếp tục đánh vợ mình. Trong lúc tức giận Mai chạy vào bếp lấy một con dao rồi đâm chồng mình gục tại chỗ, nạn nhân tử vong sau đó.

Kết quả là phiên tòa sơ thẩm ngày 11 tháng 7 vừa qua, tòa án tại Sài Gòn tuyên phạt chị Mai 8 năm tù về tội Giết người.

Nông thôn VN sẽ đi về đâu?
Chỉ có ở “nông thôn mới” ngày nay mới có chuyện bán cả chồng lấy tiền. Câu chuyện chứng tỏ nông thôn ngày nay không còn êm ấm như thời xa xưa nữa. Phải chăng vì “thượng bất chính hạ tắc loạn”? Các quan chú quan bác còn ăn từng đồng của người dân được trợ cấp vì nghèo đói, cụ thể như vụ “ăn bớt” tiền hỗ trợ vụ cá chết để làm... sân nhà văn hóa (theo Báo Dân Trí). Khi cấp tiền hỗ trợ cho ngư dân và người nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng bởi vụ cá chết ở miền Trung, cán bộ thôn Cồn Nâm, xã Quảng Minh, thị xã Ba Đồn (Quảng Bình) đã “xén” lại của mỗi hộ 50 ngàn đồng với lý do góp tiền làm sân nhà văn hóa thôn.

Không một người dân nghèo nào không phẫn nộ. No cơm rượu say, hứng chí các quan còn ngoại tình như rươi, cái bệnh vô cảm tàn nhẫn đó lan xuống đến người dân và cơ quan chức năng cho là chuyện bình thường trong mọi giao dịch. Chính những kẻ này đang tàn phá mọi thứ trên quê hương Việt Nam kể cả luân thường đạo lý. Người dân phải sống chung với bọn vong bản đó, thế hệ con cháu của làng quê VN sẽ ra sao? Nếu cứ như thế này thì tương lai “nông thôn mới” chỉ là cuộc sống rối loạn đầy tăm tối.

Văn Quang
Viết từ Sài Gòn ngày 17.07.2016

Khai Dân TríVăn Quang

2016/06/27

Những chuyện khốn nạn ở nông thôn VN ngày nay

Những chuyện khốn nạn ở nông thôn VN ngày nay

Tôi không thể dùng từ ngữ nào khác ngoài hai chữ “khốn nạn” dù từ ngữ đó không được lịch sự nhưng đó là tiếng người dân thường dùng để chỉ những hành động bẩn thỉu, quá tàn nhẫn của những kẻ có quyền có thế dù ở giữa thành phố hay nông thôn. Nhưng khổ nỗi là người dân nông thôn thường không dám mở miệng kêu ca vì sợ bị trù dập không ngóc đầu lên nổi. Tố cáo “tiêu cực” tức khắc bị chính cái cơ quan tham nhũng đó đuổi việc.
Những người nông dân phải sống trong những ngôi nhà tranh rách nát.
Cho nên người dân bị bịt mồm bịt miệng rất âm thầm chứ không bị bịt mồm khi đứng trước tòa án như cha Lý, ông bị bịt miệng lần thứ 6 khi ông hô to câu “Ô nhục, phiên tòa ô nhục.” Hình ảnh ấy được loan ra trên khắp thế giới ai cũng biết. Bọn cường hào ác bá ở nông thôn VN ngày nay khôn ranh quỷ quyệt hơn nhiều, bịt miệng dân mà không để lại dấu vết, không một ai ngờ tới. Rất nhiều sự việc đã xảy ra thường bị “chìm xuồng,” nhưng bàn tay không thể che nổi ánh sáng mặt trời, vẫn có những sự việc lọt ra ngoài khiến người dân phẫn nộ.

Bức xúc và... bức xúc, có gì đáng nhạc nhiên đâu
Sau khi Chủ tịch QH, ông Nguyễn Sinh Hùng “bức xúc” trước hàng ngàn loại phí trên thì các đại biểu, các vị bộ trưởng cũng “bức xúc” theo về sự bất cập trong việc thu phí, lệ phí hiện nay.

Trên báo Người Lao Động nhiều bạn đọc bày tỏ sự ngạc nhiên:
“Ô hay, những bất cập này, những nỗi khổ này người dân đã thấy và đã chịu bao nhiêu năm nay rồi, có gì mà các vị lãnh đạo lại “ngỡ ngàng” thế. Bao nhiêu năm qua người dân than trời, kiến nghị hoài trong các cuộc tiếp xúc cử tri hằng năm đấy thôi chứ có mới mẻ gì đâu các vị có vẻ khó hiểu. Vấn đề khó hiểu nhất chính là nó phi lý, khốn khổ với người dân bao nhiêu năm qua nhưng chẳng thấy thay đổi.”

Điều này cũng được chứng minh rõ qua trình bày của ông Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách: Sau khi QH cho ý kiến lần đầu về dự án này tại kỳ họp thứ 9 vừa qua, thường trực ủy ban này và Bộ Tài chính (cơ quan chủ trì soạn thảo) đã phối hợp với các bộ, ngành địa phương rà soát, sắp xếp, bãi bỏ 5 khoản phí và 6 khoản lệ phí, chuyển 4 khoản phí sang giá và bổ sung 6 khoản phí khác.

Với một “rừng” phí như thế, qua một kỳ họp QH mà chỉ bỏ vài loại phí, lệ phí trong khi bổ sung thêm 6 loại phí mới thì có gì là đổi mới?

Không đủ ăn lấy gì đóng phí?
Không cần nói thì ai cũng có thể hình dung cuộc sống của người dân ở vùng nông rất thiếu thốn. Một số lớn người dân còn nghèo, sống rất vất vả, thậm chí thiếu đói khi mùa giáp hạt. Hầu như họ chỉ đủ lo chạy ăn từng bữa mà không thể để dành khi thiếu đói, không lo nổi cho con cái ăn học đàng hoàng. Những loại phí “dài dằng dặc” kia thì rất “vô tư vẫn đều đặn có người đến thu đã và đang là gánh nặng đối với cuộc sống của họ”.

Cứ tưởng là “phí” thì mức thu không lớn lắm, nhưng với thu nhập ít ỏi, nếu đóng những khoản thu này thì có khả năng gia đình, con cái của họ phải mất đi nhiều bữa ăn, giấc ngủ càng trằn trọc hơn vì bao lo toan về cuộc sống. Chúng ta không quá khó để có thể nhìn thấy rất nhiều mái nhà xiêu vẹo, rách nát ở bất cứ vùng nông thôn nào. Nông dân còn nghèo lắm, từng đồng đối với họ là mồ hôi, nước mắt trải ra trên cánh đồng. Thu gì thì phải cân nhắc chứ không thể ồ ạt như thế.
Ông Đặng Văn Dũng - Bí thư Đảng uỷ xã Vĩnh Thuận - thừa nhận danh sách này là danh sách khống (toàn là tên cũa những quan ăn cắp tiền hỗ trợ của dân).
Ví dụ về một trường hợp cụ thể, bạn đọc Thanh Hà, kể:
“Vợ chồng chị tôi có 3 con. Cả nhà sống nhờ vào 3 sào ruộng và miếng vườn. Lúa làm ra không đủ cho gia đình ăn giáp hạt. Trồng rau quanh vườn cao lắm mỗi ngày thu hoạch được 20,000 đồng. Chồng thì làm thuê lúc được lúc không, rảnh rỗi thả câu kiếm dăm ba con cá cải thiện bữa ăn gia đình. Việc kiếm khoai sắn ăn trừ bữa diễn ra thường xuyên. Những đứa trẻ nhiều hôm nhịn đói đến trường trong manh áo cũ mèm, vá víu. Bao nhiêu năm nay chị trốn đóng những khoản phí mà địa phương thu. Chị là chẳng có gì để đóng và nếu đóng thì con cái càng thiếu thốn”.

Một bạn đọc Trần Văn Tí Em phân tích:
“Với thu nhập quá thấp như phần lớn người dân nông thôn hiện nay, họ không thể đầu tư được gì cho con cái. Một đứa trẻ bước vào học cao đẳng hoặc đại học thì học phí một năm mất khoảng 20 triệu đồng. Tiền ở trọ, chi phí sinh hoạt thêm khoảng 30 triệu đồng nữa. Chỉ hai khoản này thôi thì thu nhập của phần lớn người làm nghề nông chẳng thể nào kham nổi. Điều đó có nghĩa con họ thất học và tương lai chờ đợi chúng sẽ là cái cuốc và miếng ruộng. Cứ thế, tình cảnh này sẽ tiếp tục lặp lại ở đời cháu…”

Lại chuyện cái hộ khẩu hay cái hậu khổ
Tôi đã có dịp tuờng thuật với bạn đọc về người dân ở huyện Thọ Sơn, Thanh Hóa “tá hỏa” vì họ phải nộp 200 nghìn đồng cho mỗi lỗi sai trong sổ hộ khẩu và giấy khai sinh và chuyện các quan huyện Thọ Sơn- Thanh Hoá nên các quan huyện Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phúc) lại “phát minh” ra chuyện đẻ con thứ 3, nộp 2 triệu mới có giấy khai sinh. Đẻ thêm con phải đóng thêm. Như vậy có nghĩa là nếu không đóng hai triệu thì đứa con đó không được làm giấy khai sinh coi như “không được đẻ”. Chuyện này cũng chẳng khác gì chuyện “không được chết” vì “nợ” thôn 1.7 triệu đồng không cho làm đám ma.
Ông Hải khẳng định chữ ký trong danh sách không phải của ông.
Đến nay, học tập được cách kiếm tiền dân của các đàn anh Thọ Sơn (Thanh Hóa) và Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc), các quan ở thôn Đông Lâm, xã Hương Lâm, H.Hiệp Hòa (Bắc Giang) lại đẻ ra cách móc túi dân bằng cách phải nộp hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng tiền phí, mới được trả sổ đỏ.

Cái sổ đỏ quan trọng lắm, nếu không có cái sổ đỏ người dân không thể làm ăn buôn bán hoặc đi bất cứ đâu. Hơi một tí là quan chức từ anh thư ký thôn đến tòa án các cấp đều đòi “kiểm tra cái sổ đỏ” xem anh có đúng là người ở địa phương đó hay không. Sai một tí thôi là mọi việc đều “không hợp lệ, sổ toẹt hết”. Người dân coi cái sổ đỏ như sinh mạng của mình.

Thế nên nhiều gia đình dân thôn Đông Lâm cho biết, sau bao năm chờ đợi, cuối năm 2015, nhận được thông báo lên trụ sở Ủy Ban Nhân dân (UBND) xã Hương Lâm nhận “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” (tức là cái sổ đỏ – VQ) của mảnh đất đang ở. Vừa nhìn thấy sổ, người dân đã “té ngửa” vì khoản phí phải trả để được nhận sổ từ vài chục đến vài trăm triệu đồng. Một người dân cho biết: “Chính quyền xã chỉ cho chúng tôi nhìn thấy sổ đỏ chứ không cho mang về”.

Ông Đồng Văn Tú (45 tuổi) ở thôn Đông Lâm bực tức kể lại: “Nhà tôi có hơn 300 m2 đất, phải nộp 138,8 triệu đồng UBND xã mới trả sổ. Thấy khoản tiền lớn và vô lý nên tôi không nộp”.

Theo ông Tú, tháng 12.1996, gia đình đã nộp 7.5 triệu đồng để mua 308,5 m2 đất theo chủ trương bán đất lấy tiền xây dựng hạ tầng cơ sở của UBND xã Hương Lâm. Sau khi được bàn giao đất, gia đình đã xây nhà, ở ổn định từ đó đến nay, nhưng không được cấp sổ đỏ, dù nhiều lần đã đề nghị với chính quyền địa phương. Đến khi có sổ thì không đủ tiền nộp vì phí quá lớn.
Cuộc sống ở quê quá khó khăn, những đứa trẻ vào các thành phố kiếm sống.
Ngoài ông Tú, tại thôn Đông Lâm còn hàng chục gia đình khác chung tình cảnh. Theo ông Đồng Viết Thắng (57 tuổi), người nộp ít nhất là gia đình ông Nguyễn Đình Nguyên, với 60.6 m2 nộp 27.3 triệu đồng; nhiều nhất là ông Ngô Quang Giảng với 620.1 m2 đất, phải nộp 270 triệu đồng.

Theo ông Đồng Văn Tú, công thức chung để tính ra mức tiền phải nộp của mỗi gia đình kể trên là lấy tổng diện tích mảnh đất nhân với giá đất hiện thời (UBND xã áp giá 1,5 triệu đồng/m2), sau đó nhân với 30% thì ra số tiền phải nộp phí sổ đỏ. Ví dụ nhà ông Tú có 308.5 m2 x 1.5 triệu đồng = 462.75 triệu đồng x 30% = 138.8 triệu đồng. “Người dân chúng tôi không hiểu UBND xã lấy công thức tính phí cấp sổ đỏ này từ quy định nào.”

Trong khi đó, theo phản ánh của ông Thắng, năm 1996, trước khi mua đất, gần trăm gia đình dân ở thôn Đông Lâm đã chung nhau nộp 3 triệu đồng gọi là tiền quy hoạch và tiền cấp sổ đỏ cho UBND xã Hương Lâm. Người trực tiếp thu, có ghi lại phiếu, là ông Đồng Minh Hội, Trưởng thôn khi đó.

Ép dân theo luật đã bị hủy bỏ
Tuy nhiên, luật sư Tạ Quốc Cường, Giám đốc Công ty luật Hợp danh sự thật, thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội cho biết, ngày 26.8.2014, UBND tỉnh Bắc Giang đã ký Quyết định số 1271 bãi bỏ Quyết định số 191 ngày 27.6.2012, có hiệu lực từ ngày ký.

Luật sư Cường khẳng định “Như vậy, UBND H.Hiệp Hòa đã ép người dân phải nộp tiền phí cấp sổ đỏ theo quy định pháp luật đã bị bãi bỏ”.

Trước ý kiến này, bà Nguyễn Thị Hoa, Bí thư Huyện ủy Hiệp Hòa cho biết sẽ yêu cầu các cấp liên quan kiểm tra lại thông tin về việc chính quyền áp dụng văn bản pháp luật đã hết hiệu lực kể trên.

Cứ đụng đến chính quyền làm láo là lại đợi “kiểm tra, kiểm thảo” dù bà này thừa biết cấp dưới thừa hành ra sao nhưng vẫn làm thinh hoặc có “ẩn tình” chia chác gì đây nên “há miệng mắc quai” đành đưa cái bài học thuộc lòng cũ rích “kiểm tra” che đạn.

Cái thể lệ hành chính ở VN là như thế. Đừng mong gì họ sửa đổi, họ ôm chặt lấy nhau để cùng sống, cùng chia hưởng hạnh phúc chói lòa trên lưng thằng dân nghèo khố rách áo ôm.

Ăn chặn tiền hỗ trợ người dân nghèo
Một chuyện khốn nạn khác vừa xảy ra tại xã Vĩnh Thuận (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang), mấy tên cán bộ xã “ém” tiền trợ cấp cho gia đình nghèo và kê khống diện tích lúa bị hạn mặn để rút tiền hỗ trợ được UBND tỉnh Kiên Giang cấp.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) tỉnh Kiên Giang, trong đợt hạn mặn vừa qua, toàn tỉnh có hơn 56,000 ha lúa bị thiệt hại. Người dân ở tỉnh này chịu thiệt hại nặng nề vì lúa bị ngập úng do mưa dầm. UBND tỉnh đã cấp hơn 108 tỉ đồng để giúp người dân trong lúc khó khăn. Thế nhưng bọn sâu dân mọt nước lợi dụng mọi cơ hội để “ăn cướp” tiền của dân.

Nhận tiền phải đóng phí
Bà Đặng Thị Hà ở ấp Kênh 3, xã Vĩnh Thuận (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang), cho biết 4 ha lúa của gia đình bà đã bị thiệt hại 100%. Thế nhưng, chính quyền địa phương chỉ hỗ trợ cho bà 1 ha với số tiền 2 triệu đồng thay vì 8 triệu đồng theo quy định. Bà nói:
“Tôi đến gặp cán bộ ấp để khai báo 4 ha lúa bị chết khô nhưng không được ai xuống kiểm tra, xác minh. Tôi thật sự ngỡ ngàng khi được nhận tiền hỗ trợ chỉ với 2 triệu đồng cho 1 ha. Nhận tiền xong, lập tức cán bộ xã bắt tôi phải đóng các khoản phí tổng cộng 220.000 đồng nhưng không giao biên lai thu tiền, không giải thích là thu tiền gì.”

Không những vậy, một cán bộ ở xã Vĩnh Thuận (xin giấu tên) cho biết một số cán bộ xã thông đồng, móc nối với người dân nâng khống diện tích lúa bị thiệt hại để nhận tiền hỗ trợ chia nhau tiêu xài. Thậm chí có người không gieo sạ nhưng vẫn được đưa vào danh sách hỗ trợ và nhận tiền. (Tức là không gieo cấy gì hết vẫn được đền bù).

Ông Lâm Hiền Lương, Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Thuận khi trả lời báo chí đã trâng tráo bào chữa: “Có trường hợp cán bộ lập danh sách “lộn” nên mới xảy ra tình trạng hộ dân bị thiệt hại nhưng không đưa vào danh sách nhận tiền hỗ trợ”. “Lộn” gì mà “lộn” lạ đời thế, sao không “lộn” cho dân hưởng nhiều hơn quan, chỉ “lộn” cho quan ăn hết cả cái áo đụp của dân.

Quan xã giữ giùm quà Tết của dân
Cũng theo phản ánh của người dân ở xã Vĩnh Thuận, trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, có gần 86 gia đình nghèo tại địa phương được hỗ trợ quà và tiền ăn Tết nhưng cán bộ xã lập hồ sơ, chứng từ khống để “giữ giùm” cho đến nay.

Theo đó, mỗi hộ nghèo nhận 1 phần quà trị giá 150,000 đồng và 350,000 đồng tiền mặt. Ông Huỳnh Văn Tấn, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ xã, là người đứng ra nhận 31 triệu đồng từ Phòng Lao Động - Thương Binh và Xã Hội huyện Vĩnh Thuận để chi cho dân và làm các thủ tục quyết toán. Tuy nhiên, hầu hết các hộ dân đều không nhận được tiền, quà theo như danh sách ký nhận và các chữ ký này cũng là giả mạo.

Ông Nguyễn Văn Thới, ngụ ấp Kênh 14, xã Vĩnh Thuận, bức xúc: “Tết vừa rồi tôi chỉ nhận được 200.000 đồng tại văn phòng ấp chứ không có khoản tiền nào khác. Tôi cũng không biết ai đã mạo chữ ký của tôi trong bảng nhận quà và tiền hỗ trợ từ UBND huyện”.

Như thế không thể không dùng từ ngữ nào khác ngoài mấy chữ “bè lũ khốn nạn” để chỉ bọn quan lại địa phương này được.

Văn Quang
Viết từ Sài Gòn ngày 27.06.2016

Khai Dân TríVăn Quang