Showing posts with label Lịch Sử. Show all posts
Showing posts with label Lịch Sử. Show all posts

2015/08/23

Pháp trở lại Việt Nam

Pháp trở lại Việt Nam
Trần Gia Phụng

Thế chiến thứ hai bùng nổ ngày 3-9-1939. Đức tràn chiến xa tấn công Pháp tháng 5-1940. Thủ tướng Pháp Paul Reynaud, mới cầm quyền ngày 23-3-1940, liền từ chức ngày 16-6-1940. Thống chế Henri Philippe Pétain lên thay, đứng ra điều đình với Đức. Pétain ký hiệp định đình chiến với Đức tại Compiègne ngày 22-6-1940, giao cho Đức khoảng 3/5 nước Pháp ở phía bắc. Từ ngày 2-7-1940, chính phủ Pétain dời đô đến Vichy, quận hạt Allier, vùng Auvergne, miền trung nước Pháp, nên thường được gọi là chính phủ Vichy.

Thiếu tướng Charles de Gaulle, thứ trưởng bộ Quốc phòng (từ ngày 5-6-1940) trong chính phủ của thủ tướng Paul Reynaud, bỏ qua Anh. De Gaulle lên đài phát thanh London ngày 18-6-1940, kêu gọi dân chúng thuộc địa Pháp tiếp tục chiến đấu chống Đức. De Gaulle vận động và thành lập Comité National Français (Uỷ Ban Quốc Gia Pháp) tại London ngày 24-9-1941. 

Vì bị Nhật tấn công ở Pearl Harbor (Honolulu, Hawaii) ngày 7-12-1941, Hoa Kỳ tuyên chiến với Nhật ngày 8-12-1941, rồi tuyên chiến với đồng minh của Nhật là Đức, Ý ngày 11-12-1941. Hoa Kỳ thừa nhận UBQG Pháp ngày 9-7-1942, cắt đứt ngoại giao với chính phủ Pétain. 

1. Pháp chủ trương trở lại Việt Nam
Charles de Gaulle qua các thuộc địa Pháp ở Phi Châu hoạt động. Ngày 3-6-1943, Uỷ Ban Giải Phóng Quốc Gia Pháp (UBGPQGP) (Comité Français de la Libération Nationale) được thành lập tại Alger (Algérie). Ủy ban bầu hai tướng Charles de Gaulle và Henri Giraud làm đồng chủ tịch, lãnh đạo kháng chiến Pháp.

... Với các dân tộc đã biết xác định cùng một lúc tình cảm yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của mình, nước Pháp đồng ý ban hành, trong lòng cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị mới mà, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các nước khác nhau trong Liên hiệp sẽ được nới rộng và xác lập; tính chất tự do rộng rãi của các chế độ sẽ được nhấn mạnh mà không mất dấu hiệu của nền văn minh và truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương, cuối cùng, có thể nhận làm bất cứ công việc gì và chức vụ nào của Nhà nước.
Lúc đó, quân đội Nhật đã xâm nhập và thao túng Đông Dương từ 1940, tuy vẫn để nhà cầm quyền bảo hộ Pháp tồn tại. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là đô đốc Jean Decoux, thuộc quyền của chính phủ Pétain thân Đức. 

Sau ba tháng thành lập, UBGPQGP chống Đức và chống Pétain, cử tướng René Blaizot phụ trách Đạo quân Viễn chinh Viễn đông (Corps Expéditionnaire d’Extrême-Orient) vào tháng 9-1943, nhắm đến mặt trận Đông Dương. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, Editions Du Seuil, Paris 1952, tr. 145.) Tuy nhiên, mọi việc phải đợi đến sau khi giải phóng xong nước Pháp ra khỏi tay Đức Quốc Xã. 

Ngày 8-12-1943, cũng từ Alger, UBGPQG Pháp ra thông báo về chính sách đối với các nước Đông Dương, có đoạn như sau:
“... Với các dân tộc đã biết xác định cùng một lúc tình cảm yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của mình, nước Pháp đồng ý ban hành, trong lòng cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị mới mà, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các nước khác nhau trong Liên hiệp sẽ được nới rộng và xác lập; tính chất tự do rộng rãi của các chế độ sẽ được nhấn mạnh mà không mất dấu hiệu của nền văn minh và truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương, cuối cùng, có thể nhận làm bất cứ công việc gì và chức vụ nào của Nhà nước.

Cùng với sự cải cách quy chế chính trị nầy, sẽ có một cuộc cải cách quy chế kinh tế của cả Liên hiệp mà, trên căn bản tự trị về quan thuế và thuế khóa, sẽ bảo đảm sự phồn thịnh của Liên hiệp và góp phần vào sự phồn thịnh của các nước lân bang...” (Philippe Devillers, Paris Saigon Hanoi, Paris: Gallimard-Julliard, 1988,tr. 23.)

Ngày 1-2-1944, De Gaulle ra lệnh cho tướng René Blaizot thành lập Lực lượng Viễn chinh Pháp tại Viễn đông (F.E.F.E.O = Forces Expéditionnaires Françaises d'Extrême-Orient), gồm 2 lữ đoàn thuộc địa là Madagascar và Cameroun, và một đơn vị khinh binh ứng chiến (Corps Léger d'intervention). Đạo quân F.E.F.E.O được đặt dưới Bộ Chỉ huy Đồng minh tối cao Đông Nam Á do đô đốc người Anh là bá tước Louis Mountbatten điều khiển. (Philippe Devillers, Histoire du Viêt-Nam de 1940 à 1952, sđd. tr. 145.)

Trong cuộc họp của UBGPQG Pháp do De Gaulle chủ trì tại Brazzaville ở Congo, được xem là thủ phủ của Pháp tại Phi Châu, từ 30-1 đến 8-2-1944, để thảo luận về các vấn đề thuộc địa sau thế chiến thứ hai, bản tuyên bố vào cuối Hội nghị có đoạn viết:
“Các mục đích của sự nghiệp thực dân mà nước Pháp thực hiện tại các thuộc địa đã loại bỏ ý định tự trị, mọi khả năng tiến hóa ngoài khuôn khổ đế quốc Pháp: cơ cấu một chính phủ tự trị có thể có tại các thuộc địa dù cho còn lâu mới được thực hiện, phải bị loại trừ.” (Hoàng Hiển, Vua Duy Tân, Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1996, tr. 90.)

Ngày 24-8-1944, trung tướng Philippe Leclerc de Hautelocque (gọi tắt là Leclerc) dẫn quân giải phóng Paris. Chính phủ Vichy của thống chế Pétain sụp đổ. Charles de Gaulle trở về thủ đô Pháp, lập chính phủ lâm thời ngày 10-9-1944. (De Gaulle làm thủ tướng lâm thời đến ngày 20-1-1946 thì từ chức. Chủ tịch quốc hội là Félix Gouin được cử lên thay ngày 24-1-1946.)

Ngày 13-9-1944, chính phủ lâm thời Pháp quyết định chuyển gấp hai sư đoàn cho tướng René Blaizot. Ngày 26-10-1944, tướng Blaizot đến đặt bản doanh tại Kandy (Tích Lan = Ceylon tức Sri Lanka từ 1972), thành lập lực lượng viễn chinh Á Châu. Nơi đây Hoa Kỳ và Anh lập bộ chỉ huy Đồng minh tối cao Đông Nam Á (Supreme Allied Commander South East Asia Theatre) năm 1943, do đô đốc Louis Mountbatten đứng đầu. Pháp muốn nhờ Anh và Hoa Kỳ trang bị và chuyên chở quân sự sang Đông Dương, nhưng hai nước nầy đang lo việc phản công chống quân Nhật, vì lúc đó Nhật còn chiến đấu ở Á Châu. 

Tiếp đó, ngày 9-3-1945 Nhật lật đổ nhà cầm quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương, chủ trương để cho Việt Nam độc lập. Vua Bảo Đại công bố bản Tuyên ngôn độc lập ngày 11-3, làm cho De Gaulle rất tức giận. Gần nửa tháng sau, ngày 24-3-1945 thủ tướng De Gaulle tuyên bố về vấn đề Đông Dương như sau:
“Liên bang Đông Dương sẽ hợp cùng với nước Pháp và các thành phần khác trong cộng đồng thành Liên Hiệp Pháp, mà nước Pháp sẽ đại diện để đảm trách những quyền lợi ở bên ngoài. Đông Dương sẽ được hưởng nền tự do riêng trong Liên Hiệp nầy.

Những người thuộc quốc tịch liên bang Đông Dương sẽ là công dân Đông Dương và công dân Liên Hiệp Pháp. Với tư cách nầy, họ sẽ được giữ một cách công bằng theo khả năng mọi chức vụ và công việc liên bang ở Đông Dương cũng như trong Liên Hiệp Pháp, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, nguồn gốc.

Những điều kiện theo đó Liên bang Đông Dương sẽ tham gia vào các cơ chế Liên Hiệp Pháp, cũng như quy chế công dân Liên Hiệp Pháp, sẽ được ấn định bởi Hội đồng lập hiến.” (Charles de Gaulle, Mémoires de guerre, Le salut: 1944-1946, Paris: Plon, 1959, tr. 439.) 

Đức đầu hàng Đồng minh ngày 7-5-1945. Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô họp thượng đỉnh tại Potsdam (Đức) ngày 17-7-1945. Pháp không được tham dự, nhưng Paris biết ngay nội dung của tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945 của Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa gởi cho Nhật về việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương. Ngày 11-8-1945, bộ Ngoại giao Pháp gởi thư cho Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô và Trung Hoa đề nghị giao việc giải giới quân đội Nhật tại Đông Dương cho Pháp. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1996, tr. 241.)

Sau đó, thủ tướng Charles De Gaulle qua Hoa Kỳ thương thuyết với tổng thống Harry Truman trong hai ngày 22 và 24-8-1945. Tổng thống Truman nhận chức thay thế tổng thống Franklin Roosevelt từ trần ngày 12-4-1945. Harry Truman từ bỏ chủ trương International Trusteeship ở Đông Dương của Roosevelt. Trước khi rời Hoa Kỳ, De Gaulle tuyên bố sẽ thiết lập một chế độ mới tại Đông Dương gồm cả người bản xứ và kiều dân Pháp, do một đại diện của chính phủ Pháp chủ trì, sẽ có một nghị viện và một nền kinh tế tự do. Quân đội Pháp sẽ giải giới quân đội Nhật ở Đông Dương. (Chính Đạo, sđd. tr. 250). 

Đại sứ Pháp tại Hoa Kỳ đưa đề nghị ngày 28-8 rằng Anh sẽ giải giới quân Nhật trên toàn cõi Đông Dương, hoặc Pháp nhận lễ đầu hàng của quân Nhật ở miền nam vĩ tuyến 16, còn các tướng lãnh Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16 làm lễ đầu hàng ở Trung Hoa. Hai ngày sau (30-8), ngoại trưởng Hoa Kỳ trả lời rằng không thể đi ngược lại quyết định trong tối hậu thư Potsdam, nhưng Pháp có thể dàn xếp riêng với Anh và Trung Hoa. (Chính Đạo, sđd. tt. 248, 250, 252, 254.)

Lúc đó, chiến tranh vừa chấm dứt ở Âu Châu. Hoa Kỳ cần sự hợp tác của Anh và Pháp để thực hiện các kế hoạch hậu chiến, nên Hoa Kỳ uyển chuyển với Pháp, không cản trở việc Pháp kiếm cách trở lại Đông Dương. Hoa Kỳ chuyển trách nhiệm về phía Anh và Trung Hoa. 

Có thể do sự mềm dẻo của chính phủ Hoa Kỳ, các thương thuyền Hoa Kỳ đã chở từ 14,000 đến 24,000 quân Pháp đến Việt Nam từ tháng 10 đến tháng 12-1945. (Patricia K. Lane, “Éléments sur la mise en oeuvre de la politique américaine envers l'Indochine, 1940-1945”, đăng trong Les Cahiers de l'Institut D'Histoire Du Temps Présent, Paris: Charles-Robert Ageron và Philippe Devillers chủ biên, số 34, tháng 6-1996, tr. 33.)

2. Pháp gởi quân qua Đông Dương
Thủ tướng Charles de Gaulle cử tướng Leclerc làm chỉ huy lực lượng lục quân Pháp ở Đông Dương ngày 16-8-1945. Hôm sau 17-8-1945, De Gaulle ký nghị định thành lập chức cao uỷ Pháp tại Đông Dương (Haut-commissaire de France pour l'Indochine), có quyền hạn của một toàn quyền kiêm chỉ huy hải lục không quân Pháp ở Đông Dương. Ông cử người cộng sự thân tín là đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu, gốc linh mục Ky-Tô giáo La-Mã, giữ chức vụ nầy.

Trước khi quân đội Nhật Bản chính thức tuyên bố đầu hàng (14-8-1945), bộ chỉ huy Pháp ở Calcutta (Ấn Độ) ra lệnh cho người Pháp nhảy dù xuống Đông Dương ngày 13-8-1945, kể cả những nhân viên dân sự. Nhiều toán người Pháp được thả xuống ở Bắc và Trung Kỳ. Đa số bị giết hoặc bị bắt giam.
Ngày 17-8, Leclerc rời Paris qua Đông Dương. Trên đường đi, Leclerc ghé Kandy (Tích Lan) ngày 22-8 theo lời mời của đô đốc Louis Mountbatten, chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh ở Đông Nam Á. Trong cuộc gặp gỡ, bá tước Mountbatten cho Leclerc biết rõ nội dung tối hậu thư Potsdam. 

Mountbatten cho biết hy vọng thủ tướng De Gaulle, đang viếng thăm Hoa Kỳ (từ 22-8-1945), có thể sẽ thuyết phục tổng thống Harry Truman xem xét lại các thỏa ước và hy vọng Truman sẽ áp lực với Tưởng Giới Thạch, để giao cho Pháp việc giải giới quân Nhật. Leclerc liền điện về cho chính phủ Pháp, nhưng quyết định Potsdam vẫn không được sửa đổi. (Philippe Devillers, sđd. tt. 149-150.)

Leclerc yêu cầu chính phủ Pháp gởi ngay quân sang Đông Dương. Tuy nhiên Pháp thiếu phương tiện chuyên chở. Lelerc phải nhờ đến Anh và Hoa Kỳ. Mountbatten tận tình giúp máy bay, tàu đổ bộ, nhiên liệu, vũ khí, thiết bị thay thế, thuốc men, thực phẩm... 

Trước khi quân đội Nhật Bản chính thức tuyên bố đầu hàng (14-8-1945), bộ chỉ huy Pháp ở Calcutta (Ấn Độ) ra lệnh cho người Pháp nhảy dù xuống Đông Dương ngày 13-8-1945, kể cả những nhân viên dân sự. Nhiều toán người Pháp được thả xuống ở Bắc và Trung Kỳ. Đa số bị giết hoặc bị bắt giam.

Tối 22 rạng 23-8-1945, Pierre Messmer, uỷ viên Cộng Hòa Pháp ở Bắc Kỳ và hai đồng sự là Brancourt (dược sĩ, đại úy) và Marmot (trung sĩ truyền tin) nhảy dù xuống gần Phúc Yên, bị bắt cả toán. (Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, California: University of California Press, Berkely, 1980, tr. 260.) Về sau Messner trốn thoát được một cách khó khăn. (Philippe Devillers, sđd. tr. 150.)

Từ Côn Minh hay Kunming (Vân Nam, Trung Hoa), một người Pháp khác là trung tá hải quân Blanchar, nhảy dù xuống Hải Phòng ngày 16-8, đi lên Hà Nội ngày 22-8 bằng đường bộ. Blanchar cùng bốn đồng đội bị quân Nhật bắt, và chuyển đến Hà Nội ngày 23-8-1945. 

Hôm trước (22-8), Jean Sainteny, trưởng phái bộ quân sự Pháp tại Trung Hoa (trở thành ủy viên Cộng Hòa Pháp ỏ Bắc Kỳ từ 2-10-1945 thế Messner), cùng bốn đồng đội được A. Patti, thiếu tá tình báo nhóm O.S.S. 202 (Hoa Kỳ), đưa từ Côn Minh đến phi trường Gia Lâm (Hà Nội) trên chiếc Dakota của Không lực Hoa Kỳ. 

Jean Sainteny vào ở dinh toàn quyền Pháp cũ, liên lạc với giới dân sự Pháp, tìm cách nhận lại những tù binh chiến tranh Pháp bị quân Nhật bắt. Ngày 27-8-1945, Võ Nguyên Giáp, đại diện Uỷ ban Giải phóng của Việt Minh, đến thăm xã giao, nhưng sau đó, Sainteny cùng đồng đội bị giam lỏng trong dinh toàn quyền dưới sự kiểm soát của người Nhật, không liên lạc được với ai cả. (Philippe Devillers, sđd.tr. 151.)

Ngày 29-8-1945, Leclerc đáp máy bay qua Nhật, đại diện Pháp, ký vào hiệp ước đầu hàng của Nhật ngày 2-9-1945 trên chiến hạm Missouri, thả neo trong vịnh Đông Kinh (Tokyo). Chỉ huy trưởng lực lượng Hoa Kỳ ở Nhật Bản, tướng Douglas Mac-Arthur đã nói với Leclerc: “Nếu tôi được khuyên ngài, thì ngài hãy đem theo [qua Đông Dương] nhiều quân sĩ, nhiều nữa, càng nhiều theo sức ngài.” (Nguyên văn lời của Mac-Arthur: “Bring troops, more troops, as many as you can.”). (Philippe Devillers, sđd. tr. 150.)

Như thế, rõ ràng cả Hoa Kỳ và Anh đều khuyến khích và tạo điều kiện cho Pháp trở lại tái chiếm Đông Dương. 

Trần Gia Phụng
(Toronto, 23-08-2015)

Khai Dân TríTrần Gia Phụng

2014/06/11

7 yếu tố căn bản đưa đến sự thất bại của Ngô Đình Diệm

7 yếu tố căn bản đưa đến sự thất bại của Ngô Đình Diệm

Sinh ra trong một gia đình theo đạo Công Giáo nhiều đời và lớn lên trong hòan cảnh đất nước bị ngọai xâm, hai yếu tố cơ bản và then chốt đó đã tác động sâu đậm lên con người và cuộc đời của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Làm quan dưới thời Nguyễn mạt, Ngô Đình Diệm thất bại trong việc tranh dành ảnh hưởng với Phạm Quỳnh nên từ chức Thượng Thư Bộ Lại năm 1933. Từ đó ông có một cuộc sống không cố định mà phần nhiều là ở ngọai quốc.

Từ sau nữa năm 1950, ông Diệm đi Nhật Bản gặp Kỳ Ngọai Hầu Cường Để là một chuyện phụ nhưng thực ra là để gặp một cựu sĩ quan tình báo Mỹ là ông Wesley Fishel, rồi đến Vatican yết kiến Giáo Hoàng Pius XII, người nỗi tiếng vì đã từng thúc đẩy chính Phủ Hoa Kỳ thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt để giải cứu quân Pháp bị quân Việt Minh bao vây tại Điện Biên Phủ năm 1954. Sau đó ông Diệm đến Hoa Kỳ rồi đi Thụy Sỹ, Bỉ, Pháp, đến Vatican lần thứ hai, và trạm cuối là trở lại và ngừng chân lâu dài tại Mỹ từ năm 1951. Trong khoảng thời gian hai năm, ông sống trong hai tu viện Maryknoll, vùng Lakewood, bang New Jersey và Ossining, bang New York. Nhờ sự gởi gắm của người anh ruột là Giám mục Ngô Đình Thục, ông Diệm được Hồng y Spellman tiếp nhận, nâng đở và tạo cơ hội giao tiếp với dư luận địa phương qua các buổi nói chuyện tại một vài đại học cũng như tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, rồi cuối cùng được lọt vào mắt xanh của một vài chính khácht thời đó như Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, John Kennedy, Dân biểu Walter Judd, Chánh án Williams Douglas.... Tháng 5 năm 1953, ông qua Bỉ và sống trong tu viện Benidictine de St. André-les-Purges, năm sau qua Pháp chờ thời trong khi quân Pháp đang bị bại trận tại Điện Biên Phủ.

Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ năm 1954, chính sách thuộc địa của Pháp tại Đông Dương qua bao năm xương máu đã đến hồi chung cuộc. Thay chân Pháp, Hoa Kỳ tiếp tục con đường chính trị mới ở Đông Dương mà điểm nóng và then chốt là Việt Nam. Với áp lực của chính phủ Mỹ, nhờ sự can thiệp tích cực của Hồng-y Spellman mà đàng sau là Vatican và sức ép của Phong trào Cọng hòa Bình dân thân Vatican, chính phủ Pháp và Quốc trưởng Bảo Đại buộc lòng phải cử Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng trên nữa phần đất phía Nam bằng sắc lệnh 38/ QT do Bảo Đại ký ngày 16. 6. 1954.

Điểm lại một vài dấu tích trên họan lộ chính trị của Ngô Đình Diệm, chúng ta sẽ thấy họan lộ đó nỗi bật hai điểm đã quyết định cuộc đời chính trị thăng trầm của ông. Thứ nhất, Ngô Đình Diệm là một con chiên ngoan ngỏan của Vatican. Thứ hai, Ngô Đình Diệm là con người được lựa chọn để thừa hành chương trình của Mỹ ở Đông Dương sau khi Pháp thất bại.

Bài viết nầy chỉ giới hạn trong phạm vi truy tầm một số nguyên nhân đưa đến sự thất bại của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, trước là để góp phần vào việc soi sáng lịch sử và định vị trí của ông trong dòng sử Việt, sau là để giảm thiểu tình trạng đánh bóng cho nhau hoặc bôi bẩn người khác vì lý do tín ngưỡng.

Bài nghiên cứu nầy cũng không nhằm so sánh Tổng thống Diệm với Chủ tịch Hồ Chí Minh vì tính bất cân xứng và những dị biệt lớn giữa hai nhân vật. Nhưng vì muốn làm sáng tỏ luận điểm Tại Sao Ngô Đình Diệm Thất Bại, chúng tôi không thể tránh khỏi một vài đối chiếu lúc nghiên cứu. Do đó, trước lúc đi vào chủ điểm chính của bài viết, tôi xin trình bày vài nét về quan điểm của mình trong những nghiên cứu.

Sau 1975, nhiều người Việt ở nước ngòai phải sống giữa hai “lằn đạn”: bên nầy chụp mũ Cọng sản, bên kia vu khống CIA, mà cá nhân tôi là một. Nhưng không phải vì vậy mà tôi lại méo mó trong việc nghiên cứu và viết lách của mình, mặc dầu tôi thấy có rất nhiều cây bút đã bị uốn rất cong. Lại nữa, tôi chỉ là một người nghiên cứu chứ không phải là người hơn thua nhau trong một trận chiến tuyên truyền nào, nên tôi sẽ cố tránh những danh từ xem ra thiếu ái ngữ hay hạ cấp.

Nếu trong bài nầy có những luận điểm mà quí vị không đồng ý họăc cách xưng hô mà quí vị không hài lòng, thì cũng xin thông cảm rằng, để cho tôi tôi có cái quyền và cái cách được phát biểu quan điểm của mình, dẫu quan điểm đó không hợp với quí vị. Kính mời độc giả cùng tôi tìm hiểu 7 yếu tố căn bản đưa đến sự thất bại của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.


MỘT: Tính Truyền Thống

Đối với phong tục và tập quán Việt Nam, một người xuất thân từ một gia đình có truyền thống cách mạng hay một gia đình thuộc giai cấp “thế gia vọng tộc” thì dễ được xã hội chấp nhận và dễ thành công hơn là những người xuất thân từ một gia đình gốc gác mù mờ. Ngô Đình Diệm (1901-1963) ra làm quan dưới thời Nguyễn mạt, vua chỉ là kẻ bù nhìn sống xa hoa lộng lẫy trên xương máu của những người dân bị trị trong một quốc gia bị Pháp đô hộ. “Tam Cương Ngũ Thường, Lễ Nghĩa Liêm Sỉ ” không còn là những khuôn mẫu dẫu là khuôn mẫu thô sơ của nhân thế. Xã hội tiêu điều đến như vậy, mà Ngô Đình Diệm lại còn xuất thân từ một gia đình vượt qua các lằn mức đó nữa thì làm thế nào mà có thể thành tựu được sự nghiệp cách mạng, dù ông có muốn đi nữa. Bức thư (viết tay) được tìm thấy trong thư khố Pháp, do Giám Mục Ngô Đình Thục, anh ruột của Ngô Đình Diệm chứ không phải do “cọng sản ngụy tao”.

HAI: Chính Nghĩa 

Sau khi bại trận tại Điện Biên Phủ, theo thỏa ước Genève, Pháp phải rút về nước, trao trả chủ quyền và độc lập cho Việt Nam. Mỹ thay chân Pháp với sách lược chận đứng làn sóng xâm lăng của Cọng Sản quốc tế mà đứng đầu là Nga Sô. Ông Diệm được Mỹ đưa về làm Thủ tướng rồi Tổng thống một nữa nước Việt Nam với quốc hiệu Việt Nam Cọng Hoà. Dẫu biện minh họăc giải thích thế nào chăng nữa, nhưng đối với tâm cảm và truyền thống của người dân Việt bình thường, thì người Mỹ lại chỉ là một lọai thực dân mới trên quê hương của dòng giống Việt không khác gì người Pháp, người Nhật, người Tàu trước đó. Chương trình viện trợ ồ ạt và sự hiện diện của các cố vấn và chuyên viên người Mỹ trên mãnh đất miền Nam đã làm cho ông Diệm mất thêm uy tín và dễ tạo sự tuyên truyền hữu hiệu cho chính quyền miền Bắc: “Mỹ là một đế quốc thực dân mới” chẳng khác nào thực dân Pháp trước đây.

Miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, chính phủ ông cũng nhận viện trợ của Trung Quốc và Nga để đánh Pháp rồi đánh Mỹ, nhưng thành phần nhân sự của hai quốc gia nầy không hiện diện trên đất Bắc, nên bộ máy tuyên truyền của miền Bắc đã tiến hành được một đòn tâm lý chiến vô cùng lợi hại cho việc vận động nhân dân tham gia cuộc chiến gọi là “Chống Mỹ Ngụy cứu nước”.

BA: Lực Lượng Chủ Chốt Của Cách Mạng

Thời kỳ Pháp chiếm và đô hộ Việt Nam, hầu hết những người Công Giáo đều hỗ trợ đắc lực cho thực dân Pháp. Câu nói thời danh của Giám Mục Puginier sau đây đã mô tả trọn vẹn tâm chất và hành động của một thành phần người Pháp tay trong: “Không có giáo sĩ và giáo dân, thì người Pháp cũng như cua bị bẻ gãy hết càng” (Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes).

Cũng trong cái nhìn “cua phải có càng”, viên tình báo cao cấp của Hoa Kỳ là Đại tá Edward G. Lansdale đã vận dụng các kế họach nhằm di cư trên bảy trăm ngàn giáo dân từ Bắc vào Nam năm 1954, để cùng với số giáo dân sống ở miền Nam, hậu thuẩn và làm lực lượng nòng cốt cho ông Diệm.

Hầu hết các chức vụ quan trọng trong chính phủ như bộ trưởng, tỉnh trưởng, quận trưởng và các tướng lãnh, các chức trọng yếu trong quân đội, Tổng thống Diệm đều sử dụng người Công giáo. Nếu không thể kiếm được người Công giáo ông mới sử dụng đến thành phần các tôn giáo khác, nhưng sau đó đem bả công danh vật chất dụ họ cải đạo như Nguyễn Văn Thiệu là một trường hợp điển hình mà ai cũng biết. Những người không chịu cải đạo thì khó được thăng cấp và bổ nhiệm mặc dầu họ có đầy đủ khả năng và thâm niên công vụ. Trái lại, nhiều người không có khả năng nhưng vì họ là con chiên thì ông Diệm giao phó những trọng trách mà họ thực sự không có khả năng.

Thật vậy, sự thảm bại tại trận Ấp Bắc (tỉnh Mỹ Tho) vào tháng 1, năm 1963 do Đại tá Bùi Đình Đạm (Tư lệnh sư đoàn 7) và Tướng Huỳnh Văn Cao (Tư lệnh quân khu 4) chỉ huy. Sự thảm bại nầy là hậu quả do hai người chỉ huy nầy không có tài nhưng đựơc giao phó trọng trách quá lớn vì họ là người cùng một tín ngưỡng với ông Diệm..

Để gia tăng số lượng tín đồ, mà mục tiêu chính là để làm hậu thuẩn cho chế độ và bành trướng nước Chúa; mở mang biên cương cho Vatican, ông Diệm và chính phủ ông một mặt thì dùng các linh mục và bà sơ dụ người vào đạo qua các chương trình giáo dục, cô nhi, ký nhi, và từ thiện. Vì thế mới có câu “Vào đạo có gạo mà ăn”. Mặt khác qua mạng lưới công an mật vụ, chính phủ Ngô Đình Diệm tìm cách chụp mũ Cọng sản lên đầu tín đồ các tôn giáo khác, tra tấn hoặc bỏ tù họ cho đến lúc họ chịu theo đạo mới thả ra.

Tóm lại, lực lượng chủ chốt trong việc đối đầu với miền Bắc là thành phần Công giáo, chiếm 7 % dân số miền Nam. Ngọai trừ một số rất ít thuộc thành phần các tôn giáo khác, còn số người Công giáo làm nòng cốt cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm là thuộc thành phần đã từng theo hay cọng tác đắc lực với Pháp, nay Pháp thua bỏ về nước, họ theo chân Mỹ chạy vào Nam dưới sự hướng dẫn của Đại tá tình báo Lansdale với khẩu hiệu “Đức Mẹ đã vào Nam”.

Trong lúc đó, tại miền Bắc, Chủ Tịch Hồ Chí Minh nhận thức lực lượng cách mạng trong mối tương quan của giai cấp nông dân và thợ thuyền khởi đi từ bản tuyên ngôn của Karl Marx (và Engels) năm 1848. Trong đó, dưới cái nhìn của Marx-Engels, lực lượng chủ chốt của cách mạng là thợ thuyền vì Âu châu thời bấy giờ kỹ nghệ đang phát triển. Lúc đến Trung Quốc là một nước nông nghiệp chiếm đa số, và kỹ nghệ còn thô sơ, lại trọng nam khinh nữ, nên khẩu hiệu của Mao Trạch Đông là ‘nông dân và thợ thuyền là chủ chốt của cách mạng’, nhưng đã không nhắc gì đến vai trò của người phụ nữ trong xã hội.

Tại Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh nhận định rằng Việt Nam vẫn còn là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu, nhưng số nhân công thợ thuyền trong các đồn điền cao su, trong các hảng dệt, biến chế... cũng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng. Và đặc biệt hơn, là trong xã hội số lượng người đàn bà chiếm 50 % dân số. Đàn bà có thể vận tải lương thực, súng đạn, đào hầm...Như thế, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã vượt qua tầm nhận thức của Mao Trạch Đông về lực lượng cách mạng, ông viết ‘không có nông dân, không có thợ thuyền thì không có cách mạng. Từ bỏ nông dân, từ bỏ thợ thuyền là từ bỏ cách mạng. Và từ bỏ nữ giới là từ bỏ nữa công trình cách mạng’. Còn lực lượng cách mạng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là 7 % người Công Giáo, như đã nói ở trên thì làm sao tránh khỏi sự thất bại?

BỐN: Gia Đình Trị

Ngô Đình Diệm làm Tổng thống nhưng hoàn tòan thiếu thực quyền. Ông lại tâm đắc với quan niệm “Cái dù che cái cán” hay “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Vì thế, ông Ngô Đình Khôi, anh ruột ông Diệm, bị Việt Minh giết vì cọng tác với chính phủ bảo hộ thân Pháp thối nát và bù nhìn, thế mà Tổng Thống Diệm bắt dân miền Nam xem ông như một người ái quốc đã hi sinh vì nước, tang lễ lại nâng lên hàng quốc táng.

Giám Mục Ngô Đình Thục, anh ông Diệm và là người con trai thứ nhì trong gia đình, lợi dụng chức quyền của người em làm Tổng thổng để bắt các sĩ quan, quận trưởng, tỉnh trưởng và bộ trưởng đi học các lớp nhân vị tổ chức tại Tòa Giám mục Vĩnh Long. Lễ Ngân Khánh ngày 29. 6. 1963 (kỷ niệm 25 năm làm Giám mục) được tổ chức như quốc lễ. Các bộ hạ thân tín của Giám mục Thục thành lập một Ủy Ban mừng lễ Ngân Khánh gồm các nhân vật như Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc hội kiêm chủ tịch lễ Ngân Khánh, Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Quang Trình, Viện trưởng viện Đại-học Sài Gòn Lê Văn Thới, Viện trưởng viện Đại Học Huế Cao Văn Luận, và tỉnh trưởng các nơi dĩ nhiên là phải tham gia. Tại các Bộ, các nha, ty, sở, đại học, quân nhân, công, tư chức khắp 43 tỉnh và thị xã tòan miền Nam đều thành lập các tiểu ban để bán vé, và ép công chức và quân nhân cấp uý trở lên mua vé “Mừng Lễ Ngân Khánh”. Mỗi vé từ 2.500 đồng đến 5.000 đồng (hối suất lúc đó :1 Mỹ Kim tương đương khoảng 25 đồng tiền Việt Nam). Có người ra sức đóng góp nhiều hơn để lấy lòng “Đức” Giám Mục. Với hành động dĩ công vi tư và bóc lột trắng trợn nầy, Giám mục Ngô Đình Thục thu lượm được bạc tỷ (Vũ Văn Mẫu Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, tr. 9, và Hoành Linh Đỗ Mậu Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, California, Hoa Kỳ 1986, tr. 512 & 513).

Giám mục, và em là Ngô Đình Nhu, độc quyền khai thác gỗ quí vùng Long Khánh và dọc đường từ Định Quán đến Lâm Đồng, làm chủ đại thương xá Tax đường Nguyễn Huệ, nhà sách Xuân Thu đồ sộ trên đường Tự Do, cư xá cho thuê ở đường Trần Hưng Đạo, biệt thự sang trọng trên bờ sông Thị Nghè...Từ thượng vàng đến hạ cám, Giám mục Ngô Đình Thục đã không từ bỏ bất cứ một cơ hội nào để làm tiền. Lấy ngân sách quốc gia để xây cất trung tâm Nhân Vị Vĩnh Long, cất nhà cho thuê, xây dựng quán ăn, tiệm giải khát chung quanh trung tâm nầy để kiếm lợi nhuận. Lợi dụng cơ hội trùng tu nhà thờ La Văng để hốt bạc. Ngay cả việc nhờ “Tổng Thống Diệm ra lệnh cho Đại Tá Phùng Ngọc Trưng (hiện ở Pháp), đang chỉ huy ngành Quân Nhu ở Quân Khu I, phải mua nước mắm thối của các bà sơ ở Phan Thiết, để bán cho các gia đình binh sĩ” (Hoành Linh Đỗ Mậu Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi, tr. 511).

Ngô Đình Nhu. Tại Sài Gòn, vợ chồng Ngô Đình Nhu có hai biệt thự đồ sộ, một ở đường Phùng Khắc Khoan và một ở góc Pasteur và Hiền Vương. Hai biệt thự nầy thuộc lọai sang trọng nhất nhì Sài Gòn. Tại Đà Lạt, biệt thự nghĩ mát của vợ chồng bà Nhu nguy nga đồ sộ hơn, “gồm có sân vũ cầu, hồ tắm, và nhiều lọai kiến trúc sang trọng khác, đã xây dựng nhiều năm nhưng cho đến trước lúc bị lật đỗ, năm 1963, mà vẫn chưa hòan thành” (The building of this huge complex, consisting of tennis courts, swimming pool, and several luxurious structures, took several years and had not really been completed before the coup d’état in 1963. Tran Van Đon, Our Endless War, Presidio Press, San Rafael, Ca. 1978, p. 64).

Ngoài ra, cùng với người anh là Ngô Đình Thục, vợ chồng ông Nhu khai thác rừng gỗ quí ở Định Quán và dọc đường Định Quán – Đà Lạt. Khai thác nước suối Vĩnh Hảo, lông vịt ở Chợ Lớn, phân chim ở các đảo Trường Sa, Hoàng Sa, nhà thuốc Tây O.V.P. Đó là chưa kể thủ lợi qua các chương trình viện trợ của Mỹ, tổ chức các sòng bạc kín và vĩ đại, buôn bán thuốc phiện.

NĂM: Diệt Các Đảng Phái Và Giáo Phái

Ông Diệm người Quảng Bình, được xem như là người miền Bắc (vì ở bên kia vĩ tuyến 17) vào làm “vua” miền Nam. Với óc địa phương “Nam Kỳ Quốc”, nhiều người miền Nam không ưa. Đã thế, chính phủ Ngô Đình Diệm lại có chính sách đàn áp và tiêu diệt các đảng phái quốc gia, tiêu diệt Cao Đài, Hòa Hảo vốn là hai giáo phái mạnh và được nhiều người miền Nam mến mộ. Tướng Trịnh Minh Thế của Cao Đài bị giết mờ ám, tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh của Hòa Hảo bị lừa rồi bị hành quyết, giáo chủ Phạm Công Tắc bị bôi bẩn để triệt tiêu, phải chạy trốn sang Nam Vang. Hành động thiếu sáng suốt biến bạn thành thù đã tạo thành những thế lực chống đối nhà Ngô lúc ngấm ngầm, lúc công khai ầm ỷ làm lung lay gốc rễ của chế độ.

Trong lúc đó, Hồ Chí Minh đã có chủ trương tôn giáo khôn khéo. Năm 1946 tại Paris, ông đề nghị chương trình Tam Tự với các bà con người Công Giáo: Tự Dưỡng, Tự Quản và Tự Truyền; tách rời khỏi sự khống chế quá mức của Vatican. Tại miền Bắc, ông mời Giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn, Nguyễn Mạnh Hà (người Công Giáo) làm bộ trưởng kinh tế trong chính phủ VNDCCH đầu tiên.

Ngô Đình Diệm, một con chiên Việt Nam ngoan đạo, và dòng họ ông ta, không còn nằm trong thành phần vọng ngoại và trọng ngọai nữa mà đã biến thành những người Việt- gian đắc lực. Hành động nầy được Giám mục Ngô Đình Thục, anh ruột của chính Tổng thống Ngô Đình Diệm chứ không phải người nào khác, cho biết trong một bức thư gởi cho Tòan Quyền Decoux năm 1944 như đã trình bày ở đọan trước.

Nói như Linh Mục Hoàng Quỳnh “Thà mất nước không thà mất Chúa”. Nhưng Chúa (nếu có) thì ở tận mải trên trời xanh không ai thấy, không ai biết. Do đó, câu nói trên phải được hiểu “Thà mất nước, chứ không thà mất Vatican”, vì Vatican theo tín lý là cơ quan đại diện cho Chúa ở trần gian. Vì thế, Pháp đã gài cô Nguyễn Thị Lan, một tín đồ đạo gốc, làm vợ vua Bảo Đại với hy vọng biến ông vua Việt Nam tương lai, Bảo Long, thành một tín đồ của Vatican làm vua trong một quốc gia có trên 80 % là Phật Giáo. Cũng vậy, hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cọng Hòa, người dân miền Nam Việt Nam không có tự do dân chủ, họ không có quyền chọn lựa người đại diện họ. Hai Tổng thống đều là người Công Giáo trong số dân mà họ chỉ có 7%. Đây cũng là một trong những lý do làm cho dân chúng bất mãn chế độ.

Như đã trình bày ở phần đầu, những chức vụ quan trọng trong quân đội, trong các bộ các ngành, tỉnh trưởng, quận trưởng, viện trưởng, giám đốc, trưởng phòng v.v. đều do người Công Giáo nắm giữ. Nếu thiếu không kiếm được người cùng tôn giáo mới bổ nhiệm người các tôn giáo khác. Sau đó, ông Diệm dùng miếng mồi thăng chức, thăng quyền nhanh chóng cho những ai bằng lòng cải đạo. Thí dụ: Ông Trần Văn Lắm cũng nhờ đổi đạo mà giữ đựơc chức Đại biểu Chính phủ tại Nam Phần, về sau làm đại sứ. Nhờ theo Thiên Chúa giáo mà Nguyễn Đình Thuần từ chức Đổng lý Văn phòng Bộ Quốc Phòng được thăng lên chức Bộ trưởng Phủ Tổng Thống. Đại tá Nguyễn Văn Y nhờ rữa tội nên được bổ nhiệm chức Tổng Giám đốc Nha Cảnh Sát Công An. Nguyễn Văn Thiệu cũng nhờ rửa tội mà lên cấp tá dưới thời ông Diệm, và về sau được Mỹ cho làm Tổng thống Đệ Nhị Cọng Hòa (Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, Vũ Văn Mẫu, Giao Điểm 2003, trang 53). Thật là nhục nhã cho một số người có học mà chạy theo chức quyền.

Tại các thôn làng, các vùng kinh tế mới, Ấp Chiến Lược, công an mật vụ của ông Diệm, Nhu và Cẩn vu khống, chụp mũ Cọng sản lên đầu dân lành rồi bắt họ bỏ tù. Sau đó, các bà sơ và linh mục, giám mục tìm cách móc nối với gia đình nạn nhân và khuyên họ cải đạo để được thả về còn không thì bị tù rục xương. Có nhiều người thà chết không chịu bỏ đạo nên bị chết trong tù do thương tích tra tấn, hoặc do đỗ nước lạnh hay nước xà bong vào miệng, sau đó cai tù đứng lên bụng đạp cho nước tràn ra, và tiếp tục làm như vậy cho đến lúc nạn nhân chỉ còn thoi thóp chờ chết.

SÁU: Kỳ Thị Tôn Giáo Để Bành Trướng Nước Chúa 

Ngô Đình Diệm là một con người có đến hai nhiệm vụ. Là một chính khách do Mỹ đưa về, ông phải thỏa mãn đường lối của chủ. Là một tín đồ ngoan đạo, ông có bổn phận bành trướng nước Chúa. Đây là lý do chính để giải thích tại sao ông Diệm và anh em ông ta kỳ thị và đàn áp Phật Giáo, một tôn giáo có gốc rễ lâu đời và có số lượng tín đồ đông nhất Việt Nam.
 

Không riêng gì ở Việt Nam, mà hầu hết bất cứ quốc gia nào, nhất là các nước kém mở mang, lúc trở thành một tín đồ của đạo thờ ngài Giê-Su thì họ có khuynh hướng vọng ngọai, trọng ngọai và thường muốn ly khai với tổ quốc của chính họ. Gần Hoa Kỳ thì có nước Mễ Tây Cơ. Giáo hội Công giáo của quốc gia nầy thường chống lại tổ quốc của họ và làm lợi cho ngoại bang là Tây Ban Nha. Vì thế, Hiến Pháp 1917 của Mễ đã ngăn cấm giáo hội Công giáo mở trường học và sở hữu bất động sản. Các tu sĩ lúc ra đường thì bị cấm không cho mặc đồ tu, không có quyền bỏ phiếu...

Gần Việt Nam, nước Phi Luật Tân bị người Bồ Đào Nha chiếm từ thế kỷ 15, cưởng bách dân Phi trên 80 % cải đạo qua Công giáo. Vua Philip của Tây Ban Nha lấy tên mình đặt tên cho quốc gia nầy là Philippines, có nghĩa là những hòn đảo của vua Philip. Cái nhục quốc thể nầy không bao giờ gỡ ra được vì hầu hết dân Phi là Công giáo. Ngày nay, tại một vài đảo xa thủ đô Manila, quân thiểu số Hồi Giáo chống lại quân chính phủ và đòi lập một nước độc lập tự trị cũng do những nguyên nhân lịch sử nầy.

Trong kế họach cưởng bách đổi đạo, các chính quyền Công giáo đã không từ bỏ bất cứ một hành động tàn ác nào. Chính phủ Ustashi của Ante Pavalic là một thí dụ. Quốc gia Nam Tư (Yugoslavia) nằm trên bán đảo Balkan thuộc khối Đông Á phía Nam giáp nước Ý. Nam Tư có đến 6 bộ tộc khác nhau. Chủng tộc Serbia có khoảng 8. 5 triệu dân, theo Chính Thống giáo. Bộ tộc Croatia có khoảng 4. 5 triệu, theo Công giáo La Mã. Bốn bộ tộc còn lại dân số khoảng 7. 5 triệu theo Hồi Giáo. Tháng 4.1941, Hitler chiếm Nam Tư rồi biến bộ tộc Croatia thành một quốc gia riêng biệt, lập chính phủ mới có tên là Ustashi do một giáo dân cuồng nhiệt, Ante Palavic, làm Tổng thống với sự hổ trợ của giáo hội Vatican La Mã. Quân đội Đức Quốc Xã và những đội quân của các linh mục chỉ huy đi lùng bắt và khủng bố để cưởng bách tín đồ Chính Thống giáo đổi đạo. Chỉ một thời gian khỏang 8 tháng mà có đến 30 % dân Serbia bị đổi đạo, và khoảng 1. 2 triệu bị giết vì không chịu theo Công giáo La Mã.

BẢY: Không Đáp Ứng Nhu Cầu và Quyền Lợi Của Ngọai Bang

Những ai có sống trên đất Mỹ nhiều năm hoặc có tìm hiểu về chính sách của chính phủ Hoa Kỳ thì sẽ thấy rằng, họ không có bạn cũng chẳng có thù nhưng chỉ vì quyền lợi mà thôi. Thực vậy, lúc cần phải bang giao với Việt Nam, (một quốc gia thù địch số một vì trong suốt chiều dài lịch sử của Mỹ họ chưa bao giờ thua trận tại một nước nào ngọai trừ Việt Nam), thì mặc cho cọng đồng người Việt nước ngòai (nhất là tại Hoa Kỳ) vận động, biểu tình, chống đối, gởi kiến nghị, dâng thỉnh nguyện thư, nhưng chính phủ Hoa Kỳ sau khi bỏ lệnh phong tỏa kinh tế họ lại ký giao thương với chính phủ Việt Nam, họ có bao giờ quan tâm đến những thành phần mang thù hận ngút ngàn họăc những kẻ Việt Nam vong bản tha hương!

Ông Ngô Đình Diệm sau bao năm hết đến Vatican thì trở lại Mỹ, thôi ở tu viện nầy lại đến trú tại tu viện khác. Lúc tình hình chín muồi vì Pháp đã bại trận sau gần 100 năm đô hộ Việt Nam, ông Diệm được Hoa Kỳ đưa về và cho làm Thủ Tướng rồi Tổng Thống trên một phần đất có hơn 80% dân chúng khác tín ngưỡng với ông. Nhưng lúc ông Diệm vụng về và lộ liễu trong vấn đề kỳ thị tôn giáo làm cho chính phủ Hoa Kỳ khó ăn nói với thế giới, và nhất là lúc họ biết được ông liên lạc với miền Bắc để kiếm một thế đứng khác, thì chính phủ Hoa Kỳ bỏ rơi ông. Do đó, biến cố Phật Giáo năm 1963 chỉ là một phụ lực đẩy thêm cái cánh cửa mục nát đã sút hết bản lề. Đây cũng là một bài học mà những người làm chính trị cần lưu ý.
 

Lúc chính phủ Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ cũng có nghĩa là lúc Chủ nghĩa Thực-dân và phong trào đi chiếm thuộc địa toàn thế giới bị cáo chung. Và sự chiến thắng của quân đội Việt Minh tại Điện Biên Phủ ở miền Bắc Việt Nam cũng có nghĩa là sự thắng lợi của chủ nghĩa Cọng Sản quốc tế. Vì thế, Hoa kỳ thay chân Pháp mà một trong những mục đích chính là chận đứng sự bành trướng của Cọng Sản quốc tế ở vùng Đông Nam Á, nếu không thì thế ngọai giao của Hoa kỳ trên chính trường quốc tế bị thu hẹp, các đồng minh khinh thường hoặc dần dần xa lánh, và thị trường của Mỹ sẽ bị giới hạn. Điều đó cũng có nghĩa là quyền lợi của giới tư bản trong chính quyền Hoa Kỳ bị thương tổn, kéo theo sự lung lay thị trường chứng khóan thế giới mà các cổ phần của giới tư bản và cổ phần của các tổ chức tôn giáo Tây Phương cũng bị ảnh hưởng theo.

Thực vậy, mặc dầu nói là dân chủ tự do, nhưng không giàu có thì không thể trở thành Tổng thống hay nghị sĩ dân biểu trên đất Hoa Kỳ. Bằng chứng là Bộ trưởng Quốc phòng McNamara từng là giám đốc công ty hảng xe hơi Ford, và ngọai trưởng Dean Rusk từng là giám đốc công ty khí giới. (Cũng như cuộc chiếm đóng Iraq hiện nay, chính phủ Hoa Kỳ gọi đó là cuộc “Giải Phóng Iraq” (For Iraqi Liberation), nhưng những đòan biểu tình tại Mỹ lại cho là hành động “Lấy Máu Đổi Dầu” (Blood For Oil) vì Iraq là quốc gia có sản lượng dầu hỏa đứng hàng thứ nhì (?) thế giới. Báo Washington Post số ra ngày 28. 8. 03 cho biết rằng công ty Halliburton, do phó Tổng Thống Dick Cheney làm giám đốc trước đây, nhận được hợp đồng 1.7 tỉ Mỹ-kim và một số các hợp đồng khác trị giá hằng trăm triệu Mỷ-kim mà tất cả đều không thông qua một thủ tục đấu thầu bình thường nào.

Được đắc cử mà không phục vụ quyền lợi của giới tư bản thì cũng khó sống. Cái giá đó nhiều khi phải trả bằng chính mạng sống của mình như trường hợp Tổng Thống Kennedy, người có dự định rút quân ra khỏi Việt Nam sau khi tái đắc cử nhiệm kỳ 2, trong lúc số khí giới và các sản vật cung ứng cho Thế Chiến Thứ 2 còn tồn đọng quá nhiều chưa có cơ hội tiêu thụ hết để thu lợi nhuận.

Cũng thế, Giáo Hòang Pius XII vận động và đề nghị chính phủ Hoa Kỳ thả từ 1 đến 6 qủa bom nguyên tử bậc trung xuống Bắc Việt để giải cứu cho quân đội Pháp bị bao vây tại trận Điện Biên Phủ, cũng nhắm đến hai mục đích chính: Một là Vatican có rất nhiều cổ phần trong tất cả các công ty sản xuất khí giới chiến tranh, mà khí giới chiến tranh chỉ có thể tiêu thụ bằng chiến tranh khí giới. Do đó, nếu cuộc chiến Việt Nam chấm dứt thì Vatican và các nhà tư bản có nhiều cổ phần trong các công ty dĩ nhiên là không muốn. Lý do thứ hai là cần cuộc chiến và mựơn tay thực dân đế quốc để biến dân Việt Nam thành một quốc gia tòan tòng Công Giáo (và sau nầy có thêm Tin Lành) để dễ thống trị : Hình ảnh con cua gãy càng là một thí dụ rất chính xác của Giám Mục Puginier mà chúng ta nên nhớ làm lòng để giữ gìn quốc gia xứ sở.

Ngô Đình Diệm không thể sống vì ông là một người làm công không đáp ứng được quyền lợi của chủ. Nói như thế không có nghĩa là tôi chê bai ông Diệm, mà nếu giả sử chúng ta là ông Diệm thì cũng bị giết chết nếu chúng ta không chuẩn bị cho mình cái thế dân tộc và nhân dân hậu thuẫn từ ban đầu. Nhưng rất tiếc, vì cái thế dân tộc, nếu có, của Ngô Đình Diệm là tập đòan giáo sĩ và hơn một triệu con chiên ít học và cuồng tín thì làm sao đứng vững được? Lý do khác mà người ta bỏ ông Diệm vào hòm cũng chẳng phải vì ông Diệm có tinh thần quốc gia dân tộc và độc lập tự cường như một số người bênh vực nhầm, nhưng vì ông Diệm quên rằng khi người ta dẫn ông về thì ông phải biết cái mà người ta thích, và phải làm cái mà người ta muốn. Điều đó tổ tiên đã dạy rất kỷ nhưng chúng ta có lẽ vì học quá thuộc nên quên chăng: “Ta về ta tắm ao ta”.

Thêm vào đó, ông Diệm lại ngầm liên lạc với Hồ Chí Minh để được “bảo đảm” cái ghế “Thủ Trưởng Miền Nam trong Liên Bang Việt Nam sau nầy”, chứ cũng chẳng phải ông Diệm muốn hai miền thống nhất để tiết kiệm xương máu của nhân dân như một vài tay chân bộ hạ bênh vực thiếu cơ sở. Có người lại không biết sự hứa hẹn cái ghế “Thủ Trưởng Miền Nam” nên lớn tiếng nói rằng “Cụ Còn Thì Miền Nam Không Rơi Vào Tay Cọng Sản”. Để làm sáng rõ vấn đề nầy và tránh bị chụp mũ “Cọng Sản”, tôi trích một đọan của Giáo sư Tôn Thất Thiện, tiến sĩ chính trị học, từng là Bộ Trưởng Thông Tin chính phủ Việt Nam Cọng Hòa trước 1975, và cũng là một trong những người bênh vực ông Diệm hết mình và chống Cọng “chết bỏ” ở hải ngọai, đăng trên Nhật Báo Người Việt, một tờ báo cũng thuộc lọai chống Cọng hung hản. Báo Người Việt, mục Diễn Đàn, California ngày 19. 8. 2003, bài viết có tựa đề “Một Quan Điểm Mới Về Vụ Đảo Chánh Tháng 11, 1963”, giáo sư Tôn Thất Thiện viết:

“Nhìn từ một khía cạnh Á-đông, “thảm kịch Việt Nam” được thấy như sau. Ông Ngô Đình Diệm đã thực hiện được một kỳ công lớn: ông đã dành được một danh vị mà tất cả những người Việt có nguyện vọng làm lãnh tụ quốc gia đều mơ mộng: được công nhận ngang hàng với Hồ Chí Minh. Điều nầy rõ ràng khi Hồ Chí Minh nói với ký giả cọng sản trứ danh Úc Wilfred Burchett, rằng: “Ông Diệm là một nhà ái quốc theo kiểu của Ông ấy”, và “ khi nào anh gặp Ông ấy, anh bắt tay Ông ấy hộ tôi”.

“Nhân dịp Tết, ông Hồ nhờ Hội Quốc Tế chuyển cho Ông Diệm một cành đào nở hoa. Ông Diệm cho chưng cành đào nầy trong phòng khách dinh Gia Long cho ngọai giao đòan thấy. Các nhà ngọai giao lấy việc nầy làm lạ, vì họ không hiểu rằng dữ kiện nầy có một ý nghĩa biểu tượng: đó là một biểu lộ sự tôn kính của Hồ Chí Minh đối với ông Ngô Đình Diệm ! "

*****

Những sử liệu nêu trên cho thấy Tổng thống Ngô Đình Diệm xuất thân từ một gia đình Công giáo Ba Đời Việt Gian, không để lại được một tác phẩm hoặc một bài diễn văn, tự viết, để cho thấy tư tưởng chính trị và chương trình hành động của mình, không tranh đấu và khó nhọc trên chính trường, được thực dân Pháp cho chức Thượng Thư dưới thời Nguyễn mạt. Ông ra hải ngoại, sống từ tu viện nầy sang tu viện khác. Lúc thời cơ đến, ông được ngoại bang bồng về LÀM CÔNG dưới danh vị Thủ Tướng rồi Tổng Thống để thực hiện chính sách và bảo vệ quyền lợi của CHỦ.
 

Cọng sự viên thân tín và cũng là những người trực tiếp đẩy ông xuống huyệt là mấy anh em người nhà: tham nhũng, hối lộ, ham quyền, lạm chức.

Lực lượng hậu thuẫn trực tiếp là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và trên một triệu con chiên. Còn 80 % dân chúng khác tín ngưỡng thì bị đối xử bất công hoặc như kẻ thù, người thì bị tra tấn, tù đày, cưỡng bách cải đạo, kẻ thì bị giết.

Dối gạt dân chúng, nhất là thành phần quân nhân, để đấu thầu chống cọng thu lượm đô la Mỹ. Không thực hiện được những điều mà CHỦ muốn, lại còn ngầm liên lạc với miền Bắc để kiếm ghế Thủ Trưởng Miền Nam nên bị CHỦ giết. Con người và sự nghiệp của Ngô Đình Diệm giản dị và rõ ràng như thế.
 

Tuy nhiên, một cách khách quan hơn, chúng ta có thể thông cảm phần nào cố Tổng thống Ngô Đình Diệm vì trong các sử liệu không thấy có ai nói ông tham nhũng hối lộ và cáo buộc ông trực tiếp thi hành các chính sách độc ác bất công. Hầu hết các sử gia đều chỉ nói nhiều về, và nói một cách khinh miệt, anh em ông và chính phủ ông cũng như chính sách của cái tôn giáo mà ông là một tín đồ. Nhưng dẫu có thông cảm đến mức nào đi nữa, thì cố Tổng thống Ngô Đình Diệm phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tất cả những sự thịnh suy của miền Nam trong giai đoạn ông cầm quyền. Ông là một người ngây thơ, đức mỏng nhưng ngôi cao, tài hèn mà làm việc lớn thì chắc chắn thất bại. Do đó, những danh từ như anh minh, chí sĩ, hoặc gán cho ông có tinh thần quốc gia, độc lập, chủ quyền, hoặc “Cụ còn thì miền Nam không mất” v.v. , tất cả những cái đó đều hư dối, sai với thực tế, cần được bải bỏ.

Nếu để khen ngợi một người không tham nhũng, thì tôi xin gởi đến cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm một nén hương lòng. Còn việc tổ chức lễ hàng năm để đánh bóng ông thì hoàn toàn nhảm nhí, cũng như có người muốn vận động làm đài kỷ niệm để tôn vinh một người bất xứng trong tất cả mọi lãnh vực, mà sử liệu đã cho thấy, thì không nên. Hai việc làm thiếu cân nhắc nầy cần được chấm dứt để khỏi nhục cho cọng đồng người Việt chúng ta.

Những khủng hoảng rối ren sau 1963 là lỗi của các vị tướng lãnh không lịch lãm trên trường chính trị. Những rối ren đó là điều bất hạnh cho các nước nhược tiểu, gồm có Việt Nam, bị làm con cờ thí cho ý thức hệ và quyền lợi của các cường quốc. Và sự rối ren ấy cũng khó ngăn cản được nhất là dưới thời ông Diệm, vì giới tư bản, qua những danh từ hoa mỹ, nhưng không ngoài mục đích cần phải tiêu thụ hết các sản phẩm còn tồn đọng sau Đệ Nhị Thế Chiến.

Do đó, tư tưởng và hành động của tất cả mọi người dân phải đặt trên nền tảng “Ta về ta tắm ao ta”. Ta thương ta là tình thương trung thành hơn cả. Nên “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi” như ông Bụt đã khuyên./-


CDNV

Khai Dân TríCDNV

2014/04/30

30 THÁNG TƯ NÀO CON CŨNG CỨ NGẨN NGƠ

LTS: Đã hai năm rồi con vẫn còn ngẩn ngơ. Xin được đăng lại.

Lời Tác Gỉả: Tôi tình cờ gặp một người bán dạo trên đường phố Sài Gòn kể cho nghe câu chuyện đời của anh ấy. Nhân dip kỉ niệm lần thứ 37 ngày 30 /4/1975, ngày hai ba con anh ấy bị thất lạc nhau, tôi xin trân trọng gửi tới quí vị độc giả của báo nhà một bài viết về cái ngày đáng ghi nhớ đó với hi vọng anh ấy có thể gặp lại được người ba ruột yêu dấu của mình nếu may mắn ba của anh đang được sống an lành ở đâu đó trong các cộng đồng người Việt của chúng ta.

30 THÁNG TƯ NÀO CON CŨNG CỨ NGẨN NGƠ
 

Ba dìu con dọc theo Đường Tự Do ra thẳng Bến Bạch Đằng[1]
Khoảng 2 giờ sáng ngày 30 tháng Tư 37 năm rồi, con vẫn nhớ!
Giữa hàng ngàn người chạy di tản cùng bà già trẻ nhỏ
Đang cố níu bám trên cầu tàu chờ chiến hạm quay sang 
 
Con bị lạc ba giữa những tiếng còi hụ hú vang
Từ những con tàu nhổ neo ra khơi không bao giờ trở lại
Ba có lên được không trên chuyến tàu hôm ấy
Hay đã quay xuống tìm con rồi bị kẹt lại trên bờ?
 
Ba đã chạy về đâu khi đứa con tàn tật ngây thơ
Không có cơm để ăn, không còn nhà để ở?
Con bò lết đến sáng đêm rồi một người đàn bà quay lại đỡ
Đưa về nhà chăm nom và nuôi con đến bây giờ
 
30 tháng Tư nào con cũng cứ ngẩn ngơ
Đau nhớ lời ba: “Ông nội con theo Việt Minh đánh Pháp
Rồi đội cải cách ruộng đất về xử bắn ông ở Đại Từ[2]
Ba phải trốn di cư vào Nam theo giáo dân ở Bùi Chu!”[3]
 
Nay ba sống ở nơi nào có còn nhớ Mậu Thân xưa?
Lúc cả nhà ta đang yên giấc trong đêm Mùng Một Tết
Một quả đạn rơi trúng giừơng làm má và em con bị chết
Con nằm kế bên, một chân bị đứt ngang tàn phế đến bây giờ!
 
Nếu không được má nuôi cưu mang và sắm cho xe bán dạo
Thì con trai ba chắc đã không còn sống được để mong chờ
Thương má nuôi, chồng má bị mất tích khi vượt tù Côn Đảo[4]
Cứ 30 tháng Tư về má lại tủi thân, ngồi khóc tựa trẻ thơ!
 
Đi bán dạo đến nơi nào con cũng cố hỏi dò
Để xem ba có còn sống qua những tháng năm cải tạo?
Hay đã chung số phận với hàng vạn thuyền nhân gặp bão?[5]
Nhưng con vẫn thầm mong ba đang sống an lành ở một nơi xa
 
Con ao ước sẽ có một ngày được về tận quê ta
Để xây cất lại mồ mả của tổ tiên cùng của ông bà nội
Nhưng Đại Từ quá xa má nuôi già không đi nổi
Mình con đi khó khăn nên chưa thể về, xin tạ tội cùng ba!
 
Con cũng hay qua Gò Dưa thăm em và cầu nguyện má[6]
Phù hộ cho ba sống lâu để còn về gặp con và thăm lại quê nhà!
Nhưng nếu không may ba đã mãi mãi không trở về được nữa
Xin hãy báo mộng cho con để con lo hương khói nghe ba!
 

Hà Nội, 20/4/2012
Đặng Huy Văn


GHI CHÚ:
 
[1] Bến Bạch Đằng là một quân cảng của Hải Quân VNCH trước ngày 30/4/1975.
[2] Đại Từ, Thái Nguyên, nơi mở đầu chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất của miền Bắc từ 1954-1956.
[3] Bùi Chu, một giáo phận ở Nam Định, nơi giúp đỡ cho những ai muốn di cư vào Nam từ 1954-1955.
[4] Côn Đảo là  nhà tù của Pháp, sau này là của VNCH dùng để giam giữ những tù nhân chính trị.
[5] Từ 1975-1990 đã có trên 40 vạn thuyền nhân VN bị chết trên biển do bị bão tố, hư hỏng tàu, hải tặc...
[6] Gò Dưa là một nghĩa trang thuộc phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, TP HCM (Sài Gòn)

Khai Dân TríĐặng Huy Văn

2014/04/12

TRẢ LỜI VŨ LINH CHÂU VỀ DỤ SỐ 10 VÀ VẠCH TRẦN NHỮNG NGỤY TẠO LỊCH SỬ NHẰM TRIỆT HẠ PHẬT GIÁO

TRẢ LỜI VŨ LINH CHÂU VỀ DỤ SỐ 10 VÀ VẠCH TRẦN NHỮNG NGỤY TẠO LỊCH SỬ NHẰM TRIỆT HẠ PHẬT GIÁO
Kính thưa quý vị,
Thưa Ô Vũ Linh Châu,
Bài viết của Nguyên Nguyên trả lời ông Vũ Linh Châu vừa qua không ngoài mục đích rộng đường dư luận, cho mọi người hiểu thêm về luận điệu cãi chày, cãi cối, dối của ông Vũ Linh Châu khi cho rằng "Đạo Dụ số 10 là mục tiêu chính yếu mà các chính trị gia và một số chính khách mang danh "Phật Giáo" nhắm tới khi phát động cuộc chính biến 1.11.63". Và cũng để vạch trần những luận điệu dối gian của ông Vũ Linh Châu, nhóm Phục hồi Tinh thần Ngô Đình Diệm và nhất là bè lũ Liên Thành đã bẻ cong ngòi bút, ngụy tạo lịch sử nhằm đổ tội cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là Cộng Sản qua biến cố 1.11.63,
Nguyên Nguyên đã đưa ra 6 điều minh chứng về cả hai mặt LÝ và SỰ để ông Vũ Linh Châu và những kẻ trói buộc cho Phật giáo phải tâm phục, khẩu phục, mà quay về với tự tánh, bản lai diện mục, chấm dứt mọi hành động tuyên truyền lếu láo, ru ngủ người đọc. Nhưng buồn thay Giáo sĩ Vũ Linh Châu, với tâm mang nặng đầu óc tôn giáo "Hoàn Vũ", nên đã để lộ cho một bản chất đen tối không tưởng, chối bỏ sự thật và cho rằng Nguyên Nguyên đã không đi sát với đề tài tranh luận. Thực sự 6 điều Nguyên Nguyên dẫn chứng, tất cả đều mang một ý nghĩa phản bác Ông Vũ Linh Châu trong chủ đề tranh luận về Đạo Dụ Số 10 của TT Ngô Đình Diệm, mà chính Ông đã gian dối bảo rằng vẫn còn hiệu lực cho đến ngày 30.04.1975.
Vậy thể theo lời ông Vũ Linh Châu, Nguyên Nguyên xin dẫn chứng thêm về mặt “LÝ” và “SỰ”:
 
1-Sau khi Ô Ngô Đình Diệm bội ước lời thề trung thành với vua Bảo Đại cho đến chết, để rồi được Hồng Y Francis Spellman vận động với Chính phủ Hoa Kỳ đưa Ô. Diệm về nước làm Tổng thống mở ra nền Đệ I Cộng Hòa vào ngày 26.10.1955. Sau gần 8 năm cầm quyền, vì không hợp với lòng dân, đi ngược với quyền làm người và tự do tôn giáo. TT Diệm ban hành Đạo Dụ Số 10 công nhận Kito Giáo là một tôn giáo độc tôn, còn tất cả tôn giáo khác chỉ được xem như một hiệp hội, như Hiệp Hội Đánh giầy, Phụ nữ....
 
Bào huynh của TT Ngô Đình Diệm là Tổng Giám Mục địa phận Huế vơi mộng ước được Tòa thánh Vatican tấn phong lên Đức Hồng Y, nên đã ra lệnh Tỉnh trưởng và chính quyền Thừa Thiên Huế, cưỡng bắt người dân phải hạ cờ Phật Giáo trong ngày Phật Đản. Huế là cái nôi của Phật Giáo và khởi đi từ đó (LÝ) người dân đã các cuộc biểu tình xuống đường và bị chính quyền địa phương đàn áp khốc liệt gây tử vong cho 8 sinh linh vô tội trong số có trẻ em và phụ nữ tại Đài Phát Thanh Huế.
 
Trước sự đàn áp dã man không thua gì chế độ Cộng sản hành xử với lương dân ngày nay, nên các cuộc biểu tình của Sinh viên, học sinh, thợ thuyền và Quân nhân cán chính đã lan rộng khắp nơi. Tại Sài Gòn HT Thích Quảng Đức đã gửi thư cho TT Diệm, yêu cầu hủy bỏ Đạo dụ Số 10 và thực thi quyền tự do tín ngưỡng, nhưng không được TT Diệm đáp ứng.
 
Ngày 11.6.1963, HT Thích Quảng Đức đã đốt lên ngọn lửa chánh pháp, để thức tỉnh Ô Diệm là Tổng thống phải biết nghĩ đến tâm linh của người dân. Trước khi thực hiện cuộc tự thiêu, HT Quảng Đức đã căn dặn chúng đệ tử phải lo cho Ngài hoàn tất ý nguyện, cho Ngài có thời gian niệm Phật để không cảm thấy sức nóng thiêu đốt quanh thân, nhờ sự niệm Phật vi diệu đó Ngài Quảng Đức đã để lại cho người đời chiêm ngưỡng một Trái tim Bất diệt đốt không cháy Thích Quảng Đức.
 
Phóng viên Malcolm Browne có mặt ngay tại hiện trường trong lúc HT Quảng Đức tự thiêu, và những tấm ảnh của Ông Malcolm Brown đã được truyền đi khắp thế giới, gây nên sự chú ý đặc biệt tới chính sách của chế độ Ngô Đình Diệm.
 
Những gì ngược nhân tâm, nhân bản con người, chẳng sớm thì muộn cũng sẽ bị đào thải. TT Ngô Đình Diệm đã bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lật đổ vào ngày 1.11.1963. Cuộc chính biến này đã được toàn thể sinh viên, học sinh, quan, dân cán chính khắp nơi ủng hộ đổ xô ra đường hân hoan đón mừng nền Đệ II Cộng Hòa. 
 
Theo luật NHÂN QUẢ Phật giáo, TT Diệm đã tạo ra cái NHÂN XẤU trong chính sách một "Kito giáo Hoàn Vũ" nên đã phải gặt hát cái QUẢ XẤU bằng một cái chết tức tưởi. Thực vậy, chính “LÝ” do chủ trương một Kito Giáo Hoàn Vũ và chính sách kỳ thị tôn giáo của TT Diệm, đã làm cho lòng dân phẫn uất, để rồi đưa đến cớ “SỰ” sụp đổ chế độ Gia Đình trị Ngô Đình Diệm. Từ ý nghĩa đó, người có đạo đức, có nhân trí hiểu thêm rằng, chính bản chất của TT Ngô Đình Diệm đã tạo ra hiện tượng và đau buồn cho con dân Lạc Việt nó còn kéo dài cho đến ngày nay. (nhìn qua thế “SỰ” ngày nay người ta không còn ngạc nhiên về cái lẽ thường cuộc đời này, chuyện ăn cơm chúa thì phải múa tối ngày cũng đúng thôi, cho nên nhóm Phục hồi Tinh thần Ngô Đình Diệm đã bất chấp sự thật ngụy tạo lịch sử, như bài viết của giáo sĩ Vũ Linh Châu là một điển hình).
 
Vì mang tâm sân hận nên họ vô tình không biết, Cộng Sản (CS) đã lợi dụng hình ảnh Ngài Quảng Đức trong chính sách phân hóa Cộng Đồng Người Việt. CS đã đặt Ngài bên cạnh tương Hồ và đặt ngang hàng với Đức Phật tại Đại Nam Quốc Tự Bình Dương, không ngoài mục đích tạo thêm sự tranh cãi, chống đối lẫn nhau, vì lẽ ai cũng hiểu Đức Thế Tôn là Đấng Giác Ngộ, còn Già Hồ là một loài Quỷ Đỏ, sao có thể đặt ngang hàng với Đức Thế Tôn!?  Một điều đáng kể, họ bị bóng ma Liên Thành cấy sinh tử phù về một Thời Biến Động Miền Trung.
 
2- Dù thời gian đã hơn 58 năm qua, kể từ ngày mở đầu cho một thể chế Việt Nam Cộng Hòa đến nay, hiện hữu vẫn còn vô số nhân chứng sống trong cuộc trần đời này, tất cả đều đã chứng thực về một cuộc chiến lý tưởng của quân dân Miền Nam suốt 19 năm dài chống lại sư xâm lăng của tập đoàn Cộng Sản trong chính sách nhuộm "Đỏ" hai Miền Nam, Bắc dưới chiêu bài "Chống Mỹ Cứu Nước". Và rồi đau đớn thay Miền Nam Việt Nam lại bị chính người bạn đồng minh Hoa Kỳ phản bội bán đứng, dâng trọn Miền Nam cho Cộng Sản vào ngày 30.04.1975. Sự kiện này đã được Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ giải mã, cùng lời minh xác của Cựu Ngoại trưởng Herry Alfred Kissinger, mà Hoa Kỳ đã thỏa thuận với Cộng Sản trong cuộc Đàm phán tại Paris đã được ký kết từ ngày 28.01.1973.
 
Một sự kiện khổng thể không nhắc đến, về sự lầm lẫn của TT Nguyễn Văn Thiệu, dù đã bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội, nhưng TT Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tin vào chính sách Hoa Kỳ sẽ trở lại với nhân dân Miền Nam, Ông Thiệu đánh một ván bài thấu cáy với chính phủ Hoa Kỳ, nên ra lệnh rút quân khỏi Vùng I và II chiến Thuật, bỏ ngõ cao nguyên và những tiền đồn chống Cộng, gây ra thảm cảnh chết chóc tang thương cho người dân trên đường di tản vào Sài Gòn, để rồi Miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, mà chính Hoa Kỳ cũng không thể ngờ! Ấy thế mà những kẻ như Liên Thành vẫn còn tiếp tục một luận điệu vu khống cho Phật giáo là tội đồ dân tộc, và nhóm Phục hồi Tinh thần Ngô Đình Diệm luôn dối gian về Đạo Dụ Số 10, cùng kết cho Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng lật đổ ông Diệm nên Miền Nam mới rơi vào tay Cộng Sản!

3- Sau hơn 2 tháng kể từ ngày lật đổ ông Diệm, ngày 30.01.1964, được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và hậu thuẫn của một số các tướng trẻ, tướng Nguyễn Khánh thực hiện cuộc chỉnh lý cướp quyền và nhậm chức Thủ Tướng vào ngày 28.02.1964. Để thực thi tinh thần bình đẳng tôn giáo, Thủ Tướng Nguyễn Khánh đã ban hành Sắc Luật số 158-SL/CT hủy bỏ Đạo Dụ Số 10 vào ngày 14.05.1964. Chính Đạo luật bình đẳng tôn giáo này làm cho Kito Giáo cực đoan “thà mất nước còn hơn mất chúa” phẫn nộ, bức xúc, nên đã tích cực góp phần trong việc truất phế Tướng Khánh vào ngày 25.02.1965. 

Thủ Tướng Nguyễn Khánh, vị nguyên thủ tối cao vào thời đó ban hành Sắc Luật 158-SL/CT và được các cơ quan thông tin, báo chí Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chuyển đạt và phổ biến rộng rãi, thiết tưởng những ai còn biết đến đạo lý con người, thì không ai có thể chối bỏ, ấy thể mà Ông Vũ Linh Châu vẫn tiếp tục rêu rao rằng: "Dụ số 10 vẫn còn hiệu lực ít là cho tới ngày 30/4/1975 vì từ ngày 1/11/1963 cho tới hôm nay, cũng không hề có một sắc lệnh hay một sắc luật nào của chính quyền hủy bỏ toàn bộ cái Dụ số 10 đó cả”.   

Tráo trở hơn nữa Giáo Sĩ Vũ Linh Châu còn phát quyết thêm:
 "sau khi cuộc chính biến 1/11/63 thành công rồi, thì người ta đã …quên không hủy bỏ cái Dụ Số 10 đó, nghĩa là người ta vẫn duy trì nó – giống hệt như TT Ngô Đình Diệm đã làm.
Nghĩa là Dụ số 10 vẫn còn hiệu lực, ít ra là cho tới ngày…30/4/1975."  Như mọi người đều biết, trong lịch sử loài người, với bất cứ cuộc cách mạng hay cuộc đảo chính nào, ngay sau khi loại bỏ được bạo chúa hay nhà độc tài, thì người ta sẽ lập tức triệt hạ ngay cái phương tiện đàn áp chủ yếu của bọn chúng."
 
 
- Xét rằng ngay câu "Như mọi người đều biết, trong lịch sử loài người, với bất cứ cuộc cách mạng hay cuộc đảo chính nào, ngay sau khi loại bỏ được bạo chúa hay nhà độc tài," Điều này, Vũ Linh Châu đã xác nhận Ngô Đình Diệm là một nhà độc tài, bạo chúa, không hợp với lòng dân, không thể hiện đúng với tinh thần tự do dân chủ và nhân quyền con người!
 
- Người Việt Quốc gia không chấp nhận Cộng Sản và đã phải bỏ quê cha đất tổ ra đi chỉ vì Cộng Sản là một Ác Đảng không lo cho dân, không tôn trọng quyền làm người và tự do tín ngưỡng con người. Dưới thời Ngô Định Diệm tín ngưỡng tâm linh của hơn 80% tín đồ Phật giáo  bị kềm kẹp bởi Đạo Dụ số 10, thì có khác chi chế độ Cộng sản đâu chứ!?.

- Cả hai thời Đệ I, II Cộng Hòa theo thể chế VNCH kéo dài 19 năm cho khi Cộng Sản cưỡng chiếm Miền Nam vào ngày 30.4.1975.  Dù lãnh chúa Ngô Đình Diệm bị lật đổ, vị Nguyên thủ mới đã được thay thế tiếp tục lãnh đạo, để chèo lái đất nước theo thể chế dân chủ do người dân bầu lên, được hiến pháp và luật pháp quy định. Do đó, hầu hết các đạo luật ban hành từ vị lãnh đạo tiền nhiệm vẫn tiếp tục được duy trì, ngoại trừ một số đạo luật cần thay đổi cho phù hợp với tình hình mới, hoặc thực thi đúng với quyền làm người hơn. Điển hình sau khi bạo chúa Gia đình trị Ngô Đình Diệm, bị loại bỏ, chỉ hơn 3 tháng tại chức, ngày 14.05.1964 Thủ Tướng Nguyễn Khánh đã ban hành Sắc Luật 158-SL/CT hủy bỏ đạo dụ số 10.

4- Bản Tin của PTTPGQT được chuyển đi vào ngày 27.10.201, GS Võ Văn Ái đã trả lời ông Vũ Linh Châu quá đầy đủ và rõ ràng "Không như ông Vũ Linh Châu quyết đoán. Cuộc đấu tranh đòi hỏi tự do tín ngưỡng của chư Tăng Ni, và đồng bào Phật tử khởi phát từ thượng tuần tháng 5 năm 1963 đã thành công hủy bỏ Dụ số 10 dưới thời Pháp thuộc.“Sắc luật số 158-SL/CT ngày 14 tháng 5 năm 1964 công nhận Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cùng bản Hiến chương ngày 4.1.1964 : CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG QUÂN ĐỘI CÁCH MẠNG kiêm Thủ tướng Chính phủ, chiếu Hiến ước tạm thời số 1 ngày 4 tháng 11 năm 1963 và số 2 ngày 7 tháng 2  năm 1964, chiếu Sắc lịnh số 99-TTP ngày 8 tháng 2 năm 1964  ấn định thành phần Chính phủ, chiếu Dụ số 10 ngày 6 tháng 8 năm 1950, sau khi Hội đồng Chính phủ đề nghị, SẮC LUẬT :”
 
Sau đó Sắc luật ghi 6 điều mà điều thứ năm hủy Dụ số 10 đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất :
 
“Điều thứ năm : Dụ số 10 ngày 6 tháng tám năm 1950, cùng các luật lệ trái với sắc luật này, không áp dụng đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
“Điều thứ sáu : Thủ tướng Chính phủ, , các Phó Thủ tướng, Tổng trưởng, Bộ trưởng, chiếu nhiệm vụ lãnh thi hành các sắc luật này.

                                    Saigon, ngày 14 tháng 5 năm 1964                                                                                                                                      Trung tướng Nguyễn Khánh”
 
Nước mắt, máu xương của bao sinh linh đổ xuống để đánh đổi Sác Luật 158. Sắc Luật này đã đi vào lịch sử, không ai có thể thay đổi hay phủ nhận được, nhưng Giáo sĩ Vũ Linh Châu vẫn tiếp tục ngụy biện, bằng một lối chơi chữ thật ngô nghê như trẻ con, đưa ra 4 điều với Nguyên Nguyên rằng: 
 
Dẫn trích:
-        Thứ nhất: Sắc luật số 158 do TT Nguyễn Khánh ký ngày 14/5/1964 không có điều khỏan nào hủy bỏ Dụ Số 10.
-        Thừ hai: Kể từ ngày 1/11/1963 cho tới ngày 30/4/1975, cũng không có một đạo luật hay sắc luât nào hủy bỏ Dụ số 10 cả.
-        Thứ ba: Như vậy Dụ số 10 cũng vẫn còn được duy trì ít ra là cho tới ngày 30/4/1975.
-        Thứ tư: Nếu coi việc duy trì Dụ số 10 (không hủy bỏ Dụ số 10) là một tội ác của chính phủ Ngô Đình Diệm, thì:
… tất cả các vị chủ mưu cuộc chính biến 1/11/63 như tướng Dương văn Minh, tướng Trần Thiện Khiêm… như các chính khách Phan Khắc Sửu, Vũ văn Mẫu, như tất cả các vị đứng đầu nội các của Nền Đệ Nhị Cộng Hòa, TT Nguyễn văn Thiệu, TT Nguyễn Cao Kỳ, TT Phan Huy Qúat…:
 
Tất cả đều đã phạm cùng một tội ác giống như TT Ngô Đình Diệm. Đó là “Duy trì Dụ số 10”.
 
Ngưng trích :

Xét rằng 4 điều Ông Vũ Linh Châu đưa ra ở trên, có cùng một luận điệu dối trá, Nguyên Nguyên xin được trả lời:
 
- Sắc Luật 158 gồm có 6 điều, ngay điều thứ năm công nhận Bản Hiến Chương ngày 4.1.1964 của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Hai chữ GIÁO HỘI là một bằng chứng cụ thể cho Ông Vũ Linh Châu mọi người rõ, Đạo Dụ Số 10 ký ngày 06.08.1958, dưới thời TT Ngô Đình Diệm đã được hủy bỏ. Vì nếu không được hủy bỏ, và Đạo Dụ Số 10 còn tiếp tục kềm kẹp như lời ông Vũ Linh Châu, thì Phật giáo chúng tôi không thể dùng danh xưng Giáo Hội và mãi mãi vẫn chỉ mang danh xưng Tổng Hội như dưới thời ông Ngô Đình Diệm mà thôi!. “SỰ”

- Kể từ khi Thủ Tướng Nguyễn Khánh ban hành sắc luật 158 vào ngày 14.05.1964, tất cả các chùa, viện, Trung tiểu học Bồ Đề, Đại học Vạn Hạnh trên các biển đề, tiêu đề đều mang danh xưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, mà không hề bị chính quyền Đệ II Cộng Hòa bắt phải tháo gỡ, hoặc cho là xử dụng trái với Đạo Dụ số 10. “SỰ”

- Kể từ khi Thủ Tướng Nguyễn Khánh ban hành sắc luật 158 vào ngày 14.05.1964, bài “Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Bắc Nam Trung từ đây...được dùng khi cử Phật giáo Kỳ trong các chương trình Hành lễ, Đại lễ, truyền thanh, truyền hình mà hoàn toàn không bị chính quyền ngăn cấm, cho là trái phép đối với Đạo Dụ Số 10 .“SỰ”.

- Đạo Dụ Số 10 hủy bỏ cho Phật Giáo ở Điều năm vào ngày 14.5, đồng nghĩa cho người ta hiểu rằng Sắc Luật 158 áp dụng cho tất cả các tôn giáo, vì thế mọi tôn giáo đã được tự do hành đạo, mà không còn phải thông qua chính quyền địa phương như thời TT Ngô Đình Diệm trước ngày 1.11.1963.
 
Qua 4 điều Nguyễn Nguyên dẫn chứng về “SỰ” ở trên, đã xác nhận Đạo Dụ Số 10 đã được hủy bỏ bởi Sắc Luật 158 do Thủ Tướng Nguyễn Khánh ban hành, có hiệu lực kể từ ngày 14.5.1964. Sắc Luật 158 cũng đã xác định chỉ có TT Diệm đã phạm tội ác duy trì Đạo Dụ Số 10 mà thôi!.  
 
Thưa quý vị,
Thưa ông Vũ Linh Châu
 
Nguyên Nguyên nghĩ rằng giá trị con người ta là ở nhân phẩm, đạo đức, biết tôn trọng sự thật. Mang danh Giáo sĩ hay Tăng sĩ hay học cao hiểu rộng mà gian dối, chối bỏ sự thật, thì cũng thuộc vào loại có học không có hạnh, chẳng để cho người ta trọng. Là một Giáo sĩ, chắc rằng Ông Vũ Linh Châu hàng đêm đọc kinh cầu nguyện trước Đấng Toàn Năng, xin kéo ông ra khỏi sự dữ, xin mang linh hồn Ông lên thiên đàng, rồi Ông vỗ vào lồng ngực bên trái, ngay nơi trái tim, miệng bảo lẩm bẩm "lỗi tại tôi mọi đàng". Nhưng sao Ông nhận lỗi mà cứ mãi phạm lỗi gian dối vậy? Phải chăng ông vỗ vào lồng ngực quá nhẹ, không thấy thắt đau ở trái tim, hay Ông chỉ xem như là một hình thức vỗ cho có, nên ông đã không nhớ lời nguyện trước nhan thánh Chúa?.
 
Ông Vũ Linh Châu đêm ngày cứ mãi “lạy Chúa tôi” mà chứng nào vẫn tật nấy, Ông chẳng khác những người tự nhận là Phật tử lạy sám hối 108 lạy, mà tâm vẫn một bồ dao găm, thì chẳng khác nào nhục mạ đấng Cha Lành của mình. Lời Phật dạy “theo ta mà không hiểu ta, thì chẳng khác nào phỉ báng ta vậy!” . Nếu ông Vũ Linh Châu không muốn phỉ báng Đấng Toàn Năng của ông, thì điều cốt yếu là phải tôn trọng sự thật.
 
Giáo sĩ Vũ Linh Châu cũng cần hiểu thêm rằng, ông muốn tìm thêm con Chiên vào nhà Chúa, thì chính Giáo sĩ phải hành xử đúng với nhân tâm, nhân bản con người, và phải thể hiện đúng với chức năng của một Giáo sĩ. Nếu Ông cứ tiếp tục gian dối, lâp liếm, bôi nhọ,và ngụy tạo lịch sử, thì người ta ngày nay dù có mê mờ tin qua miệng lưỡi Ông, nhưng khi ánh sáng sự thật được phơi bày, không còn đúng như lời ông nói, thì tự khắc họ sẽ xa lánh Ông và còn lìa xa cả Đấng Toàn Năng Ông nữa.
 
Trước vấn nạn đất nước và sự trạng chia rẽ trầm trọng trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại, đã cho Nguyên Nguyên có một nét nhìn về Nhóm Giao Điểm, Tinh Thần Ngô Đình Diệm, Liên Thành, những kẻ đánh phá tôn giáo, chính là những thành phần đang hủy hoại tôn giáo của chính họ và đang làm lợi cho Cộng sản cần phải tẩy chay./.
 
 
Nguyên Nguyên

Khai Dân TríNguyên Nguyên