Khai Dân Trí | Bernie Sanders |
2014/03/29
2014/03/25
Cầu Siêu Hương Linh Nhà Báo Vũ Ánh
Labels:
Phật Giáo,
Thích Thiện Minh,
Video,
Vũ Ánh
2014/03/24
Xin Mãi Mãi Là Người Việt-Nam
LTS: Đọc bài viết đầy "tự hào là người Mỹ gốc Việt" của
TS Nguyễn Đình Thắng, và bài viết đầy "tự hào là người Việt Nam" của
tác giả Trần Tiên Long, chúng tôi chạnh lòng nghĩ đến một giai đoạn lịch sử
không xa lắm của người Nhật trên xứ Mỹ.
Trong thế chiến thứ nhì, từ năm 1942 đến 1946, Hoa Kỳ đã giam giữ
hơn 110 ngàn người Mỹ gốc Nhật sống trong các tiểu bang dọc bờ biển Thái Bình
Dương như California, Oregon, Washington, Arizona,... Lệnh giam giữ người Nhật
được ban ra ngay sau khi cuộc tấn công của Nhật vào Trân Châu Cảng. Sáu mươi
hai phần trăm (62%) người Nhật bị giam là công dân Mỹ.
Lúc đầu, công chúng Mỹ đứng về phía đa sô dân Mỹ gốc Nhật, như tờ
Los Angeles Times mô tả đặc trưng cho họ là "những người Mỹ tốt, sinh ra
và được giáo dục như vậy." Tuy nhiên , sáu tuần sau khi Trân Châu cảng
Pearl Harbor bị tấn công, dư luận quay lưng lại với người Mỹ gốc Nhật, người Mỹ
lo lắng về khả năng người Nhật trở thành đạo quân thứ năm (hoạt động gián điệp).
DeWitt, người quản lý chương trình giam giữ người Nhật, nhiều lần
nói với báo chí rằng "A Jap is a Jap" (một người Nhật vẫn là người Nhật)
và điều trần trước Quốc hội:
"Tôi không muốn bất kỳ người nào của họ [người có gốc Nhật] ở
đây. Họ là một thành phần nguy hiểm. Không có cách nào để xác định lòng trung
thành của họ ... Không có gì khác biệt cho dù người đó là một công dân Mỹ, họ vẫn
là một người Nhật Bản. Quốc tịch Mỹ không thể xác định lòng trung thành ...
Nhưng chúng ta phải lo lắng về việc người Nhật trong mọi lúc cho đến khi họ bị
xóa sổ khỏi bản đồ."
Bạn có thể tham khảo thêm ở http://en.wikipedia.org/wiki/
Japanese_American_internment.
Ông Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng có lẽ không có học đoạn lịch sử này. Hoặc có, nhưng không còn nhớ, do tính tự đắc và ngạo mạn quá đáng của ông. Chắc gì cái bằng Công Dân Hoa Kỳ, và lòng tự hào là Mỹ gốc Việt như ông sẽ được người Mỹ tách ra khỏi những người tự nhận là người Việt như ông Trần Tiên Long nếu có một sự xung đột mâu thuẫn nào đó về chính trị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Người Hoa Kỳ có nghi ngờ ông qua hình tướng, như chiều cao, màu mắt, màu da, màu tóc,... của ông hay không, trừ phi ông đắc lực làm Việt gian, đứng ra lập trại giam tất cả những người Mỹ gốc Việt nào khác ý với ông! Than ôi, điều đó cũng rất có thể xảy ra lắm./.
Xin Mãi
Mãi Là Người Việt-Nam
Trần
Tiên Long
Thường thì bất cứ
vấn đề nào cũng có hai mặt: mặt trái và
mặt phải; mặt nổi và mặt chìm; chiêu bài và
thực chất; hoặc điểm và diện.
Bài viết “Chúng Tôi Không
Phải Là Việt Kiều” của Tiến sĩ
Nguyễn Đình Thắng (NĐT) chỉ dựa trên
một mặt nổi của vấn đề nhưng
đã bỏ qua mặt chìm. Mặt nổi đó là một
khía cạnh pháp lý về quyền lợi của người
có quốc tịch, thường được tô vẽ
hoa hòe, nhưng chỉ là chiêu bài, không phải là thực
chất. Nó chỉ là diện, là bề ngoài, không phải là
điểm quan trọng để dựa vào đó mà phán
đoán. Tốt hơn, chúng ta cần phải nhìn vấn
đề từ cả hai mặt trước khi quyết
định cách hành xử sao cho hợp với lý lẽ.
Bài viết này có mục
đích trình bày một mặt khác, mặt thực của
vấn đề. Và vấn đề đặt ra ở
đây là việc khẳng định về thân phận,
về cái giống người của chúng ta, những
người đã vì hoàn cảnh phải xa lìa đất
tổ để tiếp tục mưu sinh cho cuộc
sống. Vậy chúng ta có còn là người Việt-Nam
nữa không sau khi đã gia nhập một quốc tịch
khác? Đối với tôi, như cái tựa của bài
viết đã khẳng định rồi, rằng tôi xin
mãi mãi được là người VN vì tôi phán đoán
dựa trên thực chất chứ không trên cái nhãn hiệu
bề ngoài.
Sau đây, tôi xin lần
lượt biện minh qua các tiểu mục sau:
Di hại của việc đồng hóa chế độ với quốc gia và dân tộc
Nếu tôi không còn là người Việt Nam
Kết luận
Là người Việt-Nam
từ khi mới chào đời, và vì hoàn cảnh chính
trị của đất nước, tôi đã vượt
biên ngay giữa tháng 5 năm 1975 và được tị
nạn tại Pháp. Khi rời VN vừa bước vào
tuổi 21, tôi không nghĩ rằng lần ra đi này là
đoạn tuyệt với mọi quá khứ. Ở Pháp
một năm, tôi qua Mỹ theo diện đoàn tụ gia
đình. Trong những năm cuối cùng của thập niên
70, khi đang còn mài đủng quần tại University Of
New Orleans, LA, anh chị em sinh viên VN chúng tôi thường
chỉ quấn quít bên nhau, ít chịu hội nhập ngay
với xã hội mới. Mỗi lần gặp gỡ, tụ
họp, chúng tôi thường ngóng cổ hỏi thăm tin
tức về VN. Ở vào thời điểm đó, bang
giao giữa Hoa Kỳ và VN chưa có nên tin tức chỉ
đến từ những người sang sau. Chẳng có
ai trong chúng tôi ý thức được rằng sẽ có
ngày chúng tôi vĩnh viễn trở thành công dân Mỹ. Khi ra
trường Kỹ sư Cơ khí vào năm 1982, tôi vẫn
không tìm ngay được việc làm thích hợp. Những
việc liên quan đến kỹ thuật cao thường
đòi hỏi phải có quốc tịch Hoa Kỳ. Ngày nay,
khi đã có quốc tịch và làm việc cho Bộ Quốc
Phòng vài chục năm nay rồi, tôi vẫn nghĩ rằng
tôi là người VN.
Thực vậy, nếu tôi là
người Mỹ gốc Việt, thì đó chỉ là trên
danh nghĩa, trong giấy tờ; vì thực chất dòng máu
VN vẫn luôn luôn luân lưu trong con người tôi. Làm sao
tôi có thể che giấu được thân phận da vàng
mũi tẹt đối với các đồng nghiệp
xung quanh tôi? Nhớ những lần đầu tiên gặp
họ, sau một vài câu xã giao với cách phát âm còn nặng
giọng VN, ai ai cũng đặt cho tôi cùng một câu
hỏi, “where are you from?”, ngụ ý rằng họ
không xem tôi là người Mỹ như họ. Tôi không
phải ngại ngùng, e dè, nhưng nói ngay với họ
rằng tôi là người VN, và dĩ nhiên ai ai cũng
hiểu tôi phải có quốc tịch Hoa Kỳ.
Mỗi ngày tôi đi làm 8
tiếng, bao gồm hội họp, bàn thảo, làm việc
nghiên cứu, viết các bài tường trình đúc kết
những kết quả của các cuộc điều tra,
hay viết emails, gọi điện thoại trao
đổi về các vấn đề kỹ thuật…
hoàn toàn xử sự như một người Mỹ. Lúc
đó tôi là người Mỹ gốc Việt. Ngược
lại, khi về nhà, tôi chỉ nói tiếng Việt,
đọc sách báo Việt, nghe nhạc Việt, ăn các món
ăn VN, giao tiếp với các người bạn VN.
Vậy tôi là người VN trong suốt 16 tiếng
đồng hồ còn lại, cộng thêm 24 tiếng
mỗi ngày cho cả hai ngày cuối tuần.
Nếu khi sinh ra đời tôi
không có quyền tự do chọn lựa hình hài của
người dân nước nào thì tại sao tôi phải
từ chối điều mà tôi đã không có quyền
lựa chọn? Có điều gì để phải xấu
hổ đến mức độ công khai khước
từ một định mệnh đã an bài? Tờ
giấy quốc tịch chỉ là sự chứng nhận
cho tôi được hưởng quyền lợi công dân
của một đất nước, nhưng bù lại,
tôi cũng phải có những bổn phận và nghĩa
vụ đối với đất nước đó. Vì
hoàn cảnh mưu sinh của cuộc sống, tôi đã
chọn Mỹ. Nhưng cái nhãn hiệu bề ngoài hay
thẻ quốc tịch trên giấy tờ không thể thay
đổi hình hài mẹ VN đã cưu mang tôi, bao gồm
cả phần thể xác lẫn tinh thần, những
thực chất của con người VN. Và cái thực
chất đó mới là điều quan trọng hơn cái
nhãn hiệu, giấy tờ.
Nhưng tại sao vẫn có
những người muốn chối bỏ cội
nguồn, chẳng hạn như Tiến sĩ NĐT đã
lên tiếng “Chúng Tôi Không Phải Là Việt
Kiều”, hoặc ông giám mục Công giáo nọ
lại cho rằng “Thật là nhục nhã khi cầm
tờ hộ chiếu VN”, mặc dù ông giám mục
vẫn hiện còn là công dân của nước VN? Có lẽ
họ muốn phản kháng để thiên hạ biết
rằng họ không phải là công dân của một chế
độ hiện tại? Nhưng lý lẽ đó không
vững, bởi vì chúng ta không thể đồng hóa một
chế độ với một quốc gia và dân tộc.
Chế độ hay chủ nghĩa chỉ là giai
đoạn, luôn luôn biến đổi, nay còn mai mất;
trong khi dân tộc và quốc gia thì mãi mãi trường
tồn. Tôi cũng vẫn luôn luôn là người VN cho dù
đất nước VN đang được cai trị
bởi chế độ VNCH hay XHCNVN. Và tôi cũng dư
biết rằng đất nước VN tôi là một
quốc gia rất nghèo, có lịch sử 1,000 năm nô
lệ giặc Tàu, 100 năm nô lệ giặc Tây, và còn
“20 năm nội chiến từng ngày”. Có phải
chỉ vì nghèo khó mà tôi thực lòng cam tâm chối bỏ thân
phận làm người VN?
Danh từ “Việt
kiều” được định nghĩa là
người Việt-Nam cư ngụ ở nước
ngoài, cho dù họ có đổi quốc tịch hay không.
Người Cộng sản hay người Quốc gia thì
trước tiên họ cũng vẫn là người VN.
Chẳng ai xem “Việt kiều” là
người VNCH hay người XHCNVN đang sống ở
nước ngoài cả. Quốc tịch cho chúng ta quyền
hạn pháp lý của một công dân, nhưng không thay
đổi hình hài, máu mũ, và cả cái nền văn hóa
đã hấp thụ bao năm qua từ khi mới chào
đời, những bản chất đích thực bên trong
của một nòi giống dân tộc, những thứ không
dễ gì có thể thay đổi một sớm một
chiều.
Chẳng hạn, ở Mỹ,
khi ra đường, chúng ta bắt gặp một
người có vóc dáng Tàu hay Ấn Độ, chúng ta vẫn
thường gọi họ là người Tàu hay Ấn
Độ, chẳng ai gọi họ là người Mỹ
gốc Tàu hay gốc Ấn Độ cả. Nếu có thì
cũng chỉ có trên giấy tờ, không phải trong
thực tế của cuộc sống hằng ngày. Và,
dĩ nhiên, họ cũng đối xử với
người VN chúng ta như vậy. Chúng ta thấy có
nhiều phố Tàu (China Town), nhưng tuyệt đối
chúng ta chưa thấy phố Mỹ gốc Tàu bao giờ
cả. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Nếu mai
này có phải di cư qua Pháp và vì hoàn cảnh cần
phải thay đổi quốc tịch thì tôi cũng là
người Pháp gốc Việt, không phải là
người Pháp gốc Mỹ, cho dù hiện tại tôi
đang là công dân Mỹ.
Còn đối với
người VN ở quốc nội, dù chúng ta là những
người Mỹ hay người Pháp gốc Việt thì
họ cũng cứ gọi chúng ta là Việt kiều,
một danh từ đã có từ rất lâu đời,
trước rất xa biến cố 30/4/1975, để
chỉ tất cả những người VN đang
sống ở ngoại quốc, bất kể tình trạng
pháp lý của họ như thế nào. Dù chúng ta đã có
quốc tịch mới hay chỉ là những thường
trú nhân, chưa có thẻ quốc tịch, ăn ở
nước ngoài hợp pháp hay không hợp pháp, thì họ
cũng vẫn gọi chúng ta là những Việt kiều,
chẳng chạy đi đâu được. Như
vậy, dựa vào lỹ lẽ nào để có thể
chối bỏ một sự thực đã có từ ngàn
đời như Tiến sĩ NĐT đang làm, rằng “Chúng
Tôi Không Phải Là Việt Kiều”?
Chúng ta hãnh diện mình là
người Mỹ gốc Việt, từ chối thân
phận làm người VN, nhưng đã ở Mỹ
gần 40 năm rồi mà vẫn còn rất nhiều
người trong chúng ta chưa nói được tiếng
Mỹ để hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ. Qua
vụ bão Katrina ở New Orleans, LA, tình trạng không nói
được tiếng Mỹ này đã được phàn
nàn nhiều bởi các cơ quan chức năng chính
quyền khi họ cố gắng giúp đỡ những
nạn nhân người Mỹ gốc Việt.
Tác giả Trần Bình, trong bài
“Gửi Các Bạn Hải Ngoại”
được ông tuyen do [tonguyenviet@yahoo.com] đưa vào
diễn đàn ngày22/3/2014, viết:
Có một sự việc
đáng buồn nhưng ít ai biết từ mấy chục
năm qua, đến gần đây mới lộ ra. Ở
New Orleans, US, nếu không có cơn bão Katrina vừa rồi,
thì đâu có ai biết là rất nhiều người
Việt định cư ở New Orleans không biết nói
tiếng Anh và không thể tiếp xúc với Cảnh Sát khi
có việc cần. (đây là những người qua đây
từ 1975 đã có cơ nghiệp vững vàng, chứ không
phải những người mới qua).
Ở những nơi tập trung đông người Việt như California, Georgia, Texas, và vùng Washington DC, mọi giao dịch đều dùng tiếng Việt, kết quả là trình độ ngoại ngữ của người Việt rất kém.” (Hết trích).
Ở những nơi tập trung đông người Việt như California, Georgia, Texas, và vùng Washington DC, mọi giao dịch đều dùng tiếng Việt, kết quả là trình độ ngoại ngữ của người Việt rất kém.” (Hết trích).
Như vậy, chúng ta vẫn
là người VN trong thực chất, không thể chối
cãi được, cho dù chúng ta có nhập tịch
để là công dân của một quốc gia khác trong
giấy tờ.
2. Di hại của việc đồng hóa chế độ với quốc gia và dân tộc
Sự đồng hóa một
chế độ với một quốc gia và dân tộc
một cách lầm lẫn như đã bàn ở trên sẽ
đưa đến những cách thức hành xử nguy
hại cho quyền lợi của quốc gia và dân tộc,
vô tình biến chúng ta thành những tội đồ của
dân tộc VN. Nhiều khi chúng ta nhân danh việc chống
Cộng, tưởng là chúng ta đang chống một
chế độ, nhưng thực ra là chúng ta đang
chống lại quyền lợi của quốc gia và dân
tộc VN chúng ta.
Khi toàn dân cả nước
đang cố gắng làm sao cho dân giầu, nước
mạnh, bằng cách hội nhập vào cộng đồng
quốc tế, và khi toàn thể các quốc gia trên thế
giới muốn bang giao, làm bạn, hợp tác, làm ăn
với VN, kể cả tòa “thánh” Vatican, thì người
VN ở hải ngoại cứ lo loay hoay chống họ.
Chúng ta chống Mỹ bang giao với VN, chống VN gia
nhập Liên Hiệp Quốc, chống VN được là
thành viên của Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp
Quốc, chống thế giới làm ăn với VN,
chống VN xuất cảng hàng hóa ra ngoại quốc,
chống du lịch về VN, chống cả việc làm
từ thiện, giúp đỡ dân nghèo trong các vụ thiên
tai, bão lụt ở VN… nhưng kết quả của
những thứ chống đó chỉ làm hại
đến quyền lợi của quốc gia và dân tộc,
làm chính đất nước và anh em bà con ruột thịt
của chúng ta muôn đời nghèo đói vì bị cô lập,
ở vào thế bế quan tỏa cảng như Bắc
Hàn, chứ không thể đoạt được quyền
lực đang trong tay của một chế độ.
Những kẻ đang làm nguy hại đến quyền
lợi của quốc gia và dân tộc đều là
những tội đồ hay kẻ thù của quốc gia
và dân tộc, cho dù họ núp dưới chiêu bài Quốc gia
hay Cộng sản.
Mà thực ra, chúng ta chống Cộng chỉ là trên danh nghĩa, chúng ta chống nhau mới là bản chất đích thực của vấn đề. Cứ mỗi khi muốn chống ai trong việc làm ăn hay tranh dành chức vụ thì việc đầu tiên chúng ta đội cho họ cái nón cối Cộng sản, rồi sau đó tha hồ thoải mái tự do tố Cộng mà chẳng cần phải chứng minh họ là Cộng sản. Bao nhiêu tội lỗi của Cộng sản từ trước tới nay được vô tư đổ lên đầu các đối thủ, nhưng chẳng bao giờ chúng ta tự hỏi rằng họ đã làm gì, ngoài sự khác biệt một ý kiến, một quan điểm, một nhận thức về cùng một vấn đề. Có thể khẳng định mà không sợ nói quá đáng rằng có hơn 95% những ý kiến được phát tán hằng ngày trong các diễn đàn công cộng của người Việt hải ngoại là để chửi bới và mạt sát giữa những người Việt Quốc gia với nhau. Bây giờ thì lại có bài của tác giả Trịnh Viết Bắc với nội dung tố ngược ở ngay tựa đề “Chính “Việt Kiều” tỵ nạn cộng sản đã giúp đỡ cộng sản!”
Cái nghị quyết 36 của
Cộng sản tự nhiên trở thành một lý do
để chúng ta biện minh cho việc chống nhau,
cứ làm như Cộng sản có thuộc tính toàn năng
của Thượng đế, luôn luôn núp sau những
đối thủ đang chống phá chúng ta. Ngay cả
những tội lỗi, bê bối, đã có từ ngàn
xưa, của các ông bà chuyên nghề buôn thần bán thánh
cũng được đổ lên đầu
người Cộng sản. (Nguồn: Nghề Đi Tu - Cộng Sản Không
Phải Là Thần Thánh: http://sachhiem.net/index.php? content=showrecipe&id=5915 ). Tại sao chúng ta không
thể can đảm mở rộng mắt ra để
nhìn thấy Lỗi Tại Chúng Ta Mọi Đàng? Vì chúng ta cứ lo chụp
mũ, đổ tội cho Cộng sản để
chạy quanh như vậy nên xung quanh chúng ta chỉ còn toàn
là Cộng sản. Nếu Cộng sản có thuộc tính toàn
năng thần thánh như chúng ta đang xưng tụng thì
chúng ta lấy gì để thắng họ?
3. Nếu tôi không còn là người Việt Nam
Có một hệ lụy nghiêm
trọng khác khi chúng ta từ chối mình là người VN,
đó là chúng ta cũng đương nhiên từ chối
thân phận người Việt Quốc gia của chúng ta,
nếu còn muốn gọi là người Việt Quốc
gia. Bởi vì “Chúng Tôi Không Là Việt Kiều”,
vậy còn lý do gì để tự nhận mình là người
VN tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc và quốc
gia VN? Và có mấy người VN tị nạn chính trị
từ năm 1975 tới mãi giờ này vẫn chưa vào quốc
tịch để còn được gọi là người
VN? Nhưng khổ
một điều, chỉ có chúng ta, những người
VN còn nặng lòng với quê hương và dân tộc,
mới thực sự thương yêu đất
nước và dân tộc VN.
Nếu chúng ta cứ tưởng
mình thực sự là những người Mỹ thì tại
sao chúng ta không bắt chước hành xử như người
Mỹ, họ đang xem dân tộc VN như những người
bạn, mặc dù trong quá khứ đã có một thời là
những kẻ thù của nhau?
Khi Ngoại trưởng John Kerry đến thăm VN vào tháng 12 năm 2013, ông đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tăng thêm viện trợ 32,5 triệu đô để giúp các quốc gia Đông Nam Á bảo vệ chủ quyền biển, và để bảo đảm quyền tự do hàng hải. Riêng Việt Nam sẽ nhận thêm 18 triệu, kể cả 5 tàu tuần tiểu cao tốc cho Hải Quan Việt Nam. Với sự giúp đỡ từ phía Hàng Hải Hoa Kỳ này, số tiền viện trợ sẽ lên đến hơn 156 triệu trong vòng hai năm cho vùng Đông Nam Á. (Nguồn: Kerry announces new US maritime security aid to Vietnam amid China tensions, pushes reforms)
Như vậy, nếu tôi là người Mỹ làm việc cho bộ Quốc Phòng thì đương nhiên tôi phải trung thành với chính sách ngoại giao của quốc gia đang cưu mang tôi và gia đình tôi. Và chính sách hiện nay của Hoa Kỳ là hợp tác song phương ở nhiều lãnh vực, bao gồm kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo… cho sự lợi ích của cả hai bên.
Tiến sĩ NĐT khẳng định rằng “Chúng tôi không là Việt kiều. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt,.” Rồi ông giải thích thêm: “Cái gốc Việt ấy cho phép chúng tôi lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam.” Nhưng thưa ông Tiến sĩ, bất cứ ai ở Mỹ, chẳng cần phải có cái gốc gác VN như ông đang đòi hỏi, cũng đều có quyền “lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam”. Chẳng có ai ở một đất nước có tự do ngôn luận như ở Mỹ có thể cấm đoán và bịt miệng ông Tiến sĩ. Vậy chúng ta không nên phàn nàn hay xử sự dựa trên một điều gì không bao giờ có thực. Một điều không thực thì chẳng có thể là lý do để ông dùng biện minh có tính thuyết phục điều ông vừa khẳng định.
4. Kết luận
Thế giới càng ngày càng bé nhỏ, nhất là ở thời điểm có thông tin điện tử và trao đổi toàn cầu. Nếu không thể loại trừ nhau thì chỉ còn có mỗi một cách duy nhất là sống chung hòa bình với nhau. Không phải chỉ có chiến tranh mới có thể làm thay đổi lịch sử. Lịch sử chứng minh cho chúng ta thấy rằng đã có biết bao cuộc chiến tranh rồi, nhưng sau mỗi một cuộc chiến, chúng ta lại tiếp tục chung sống với nhau. Ngày nay, chúng ta đang sống chung với những kẻ đã gây ít nhất 7 cuộc thánh chiến, những kẻ đã xưng thú 7 núi tội ác đối với đồng loại; chúng ta cũng đang làm bạn với những người Đức quốc một thời hủy diệt toàn dân Do thái; chúng ta cũng đang làm bạn với các quốc gia Cộng sản có một thời gia nhập Liên Bang Xô Viết gây biết bao tội ác cho nhân loại; và chúng ta cũng đang làm bạn với các quốc gia thực dân Pháp và Nhật Bản một thời đã xâm chiếm đất nước của chúng ta. Lấy oán trả oán, oan oan tương báo cứ chồng chất, chẳng bao giờ chấm dứt.
Đối với tôi, có
một cuộc chiến quan trọng và trường kỳ
kể từ khi có con người, đó là một cuộc
chiến giữa thiện và ác; giữa những
điều sai lầm, mê tín dị đoan và các chân lý;
giữa tinh thần cực đoan cuồng tín giáo
điều và lòng bao dung chấp nhận những quan
điểm đối nghịch; giữa độc tài và
tự do; giữa tham nhũng, bất công và công lý, v/v…
mà vấn đề chủ nghĩa hay chế độ
chỉ là một trong những biểu hiệu của
cuộc chiến. Đó là một cuộc chiến mà tôi
nghĩ bất cứ người trí thức nào cũng
không thể từ chối dự phần. Chẳng cần
phải khẳng định cương vị của
một người dân nước nào thì tôi cũng có thể
tham gia trận chiến trong khả năng và hoàn cảnh
giới hạn của cá nhân tôi.
Nhưng có một điều
tôi biết chắc chắn rằng chẳng bao giờ tôi
muốn là một “chiến sĩ” chỉ biết
chống Cộng bằng cách trùm mền hô xung phong ở
thời điểm mà chủ nghĩa Cộng sản
chỉ còn là một xác chết thuộc về lịch
sử. Một thái độ cực đoan tương
tự như kiểu “it’s my way or the highway”
không phải là thái độ thích hợp mà tôi cần
phải theo đuổi.
Năm xưa, tướng quân
Trần Bình Trọng khẳng định rằng, “thà
làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua nước
Bắc”. Quan niệm này chỉ trình bày
được cái mặt lý tưởng cực đoan
nhưng bỏ qua cái mặt thực tế và thực
dụng của vấn đề. Ngày nay, tôi thà làm vua
nước Bắc, bởi vì ở thời điểm
chính trị, kính tế hội nhập toàn cầu này,
với quyền thế của một ông vua, tôi có thể
giúp đỡ quốc gia và dân tộc VN tôi dễ dàng
hơn là từ vị thế của một thằng
quỷ, cho dù là thằng quỷ của nước Nam. Do
vậy, tôi sẽ sẳn sàng nhập một quốc
tịch mới để có cơ hội phục vụ
hiệu quả hơn, trong sự giới hạn của
khả năng và hoàn cảnh, cho dân tộc và quốc gia VN
nói riêng, và cho cộng đồng nhân loại nói chung.
Dù sao chăng nữa, hình hài do
mẹ VN cưu mang và dòng máu tiên rồng trong con
người tôi không thể thay đổi, nay còn mai
mất. Vậy tôi xin mãi mãi được là người
VN, cho dù không còn trên danh nghĩa giấy tờ. Là
người VN trong thực chất, tôi chẳng phải là
người của riêng chế độ nào, nhưng
chỉ là con dân của nước Việt, một quốc
gia của tổ tiên dân tộc tôi. Chế độ hay
chủ nghĩa thì chỉ là giai đoạn, còn dân tộc
và quốc gia thì mãi mãi trường tồn./.
Trần Tiên Long
Havelock, NC
March 23, 2014
___________________
Chúng Tôi Không Là Việt Kiều
Ts.
Nguyễn Đình Thắng
Nguồn: http://machsong.org/modules.Khai Dân Trí | Trần Tiên Long |
Đến lượt ông Phó Tổng Thanh Tra đương chức bị “tố”
Văn Quang - Viết từ Sài Gòn, ngày
24.3.2014
Đến lượt ông Phó Tổng Thanh Tra đương chức bị “tố”
Kỳ báo trước, tôi đã tường thuật
cùng bạn đọc những dinh cơ đồ sộ của nhiều quan chức ở nhiếu tỉnh tại VN, nhất
là loạt phóng sự điều tra của báo Người Cao Tuổi về tài sản khoảng vài chục
triệu mỹ kim của ông cựu Tổng Thanh Tra Chính phủ Trần Văn Truyền, cùng với việc
trước lúc ông Truyền về hưu, chỉ tính từ tháng 3/2011 đến ngày 3/8/2011, ông
Trần Văn Truyền đã ký bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp Cục, Vụ tại cơ quan Thanh tra
Chính phủ.
Sự việc này đang gây nhiều tai tiếng, nhưng tiếp sau đó, báo Người Cao Tuổi lại có loạt bài điều tra tiếp về ông Phó Tổng Thanh Tra Chính Phủ (Tổng TTCP) hiện đang đương chức liên quan đến kết luận thanh tra Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng TTCP, ông đã cắt giảm 6.500 tỉ đồng nhằm mục đích gì?
Ông Ngô Văn Khánh Phó Tổng Thanh Tra Chính
Phủ
Người dân còn nhớ rất rõ EVN bị lỗ lớn vì đầu tư ngoài ngành: tính chi phí xây biệt thự, sân tennis vào…giá thành bán điện. Điều này khiến người dân phẫn nộ kéo theo rất nhiều nghi vấn về sự “thiếu minh bạch” của cơ quan thanh tra nhà nước, bỏ qua, làm lơ trước những sai phạm khác của Tập đoàn Điện lực Việt Nam để tập đoàn này “rút ruột” người dân.
Hơn thế, kể từ 12g trưa ngày 19-3-2014 vừa qua giá xăng lại tăng 180 đồng càng làm dư luận sôi sục. Nhiều cây xăng “tranh thủ” tăng giá sớm khiến người lao động đã túng thiếu quanh năm càng lao đao.
Chính vì thế dư luận lại “chĩa mũi dùi” vào mớ tài sản khổng lồ của ông Phó Tổng Thanh Tra Chính Phủ, chẳng khác gì ông cựu Chánh TTCP Trần Văn Truyền.
Tài sản
của ông Phó TTCP kê khai là bao nhiêu
Được biết, trước khi được bổ nhiệm vị trí Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, ông Ngô Văn Khánh phải kê khai tài sản và ông đã kê khai như sau:
Về bất động sản:
– Có 2 nhà gồm: Nhà thứ nhất ở số
7/49/192 Lê Trọng Tấn, quận Hoàng Mai, TP Hà Nội diện tích 114m2 đất, và nhà thứ
2 ở số 9/49/192 (cùng địa chỉ trên) diện tích 248m2.
Một trong hai căn nhà của ông Ngô Văn Khánh
– Có 1.800m2 đất ở dự án Mê Linh (gần đền Hai Bà Trưng, giá đất thời điểm hiện nay 10 – 15 triệu đồng/m2 – PV).
– Ngoài ra, ông khánh còn là cổ đông có cổ phiếu (CP) ở Ngân hàng Quân đội: 104.000 CP; Ngân hàng Nam Á: 27.900 CP; Ngân hàng Đông Á: 18.500 CP; Ngân hàng Liên Việt: 200.000 CP; Xi-măng Công Thanh: 100.000 CP; Công ty CP Thiết bị Bưu điện: 50.000 CP; Trái phiếu 425 triệu đồng; tiền gửi tại Ngân hàng VIB: 7,18 tỷ đồng.
Bất ngờ trước khối tài sản "khủng này", nhiều bạn đọc đã đặt nghi vấn, nhất là khi Báo Người cao tuổi số 9 (1326) ngày 15/1/2014 đăng bài “Về kết luận thanh tra Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN): Ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ “cắt giảm” hơn 6.000 tỉ đồng vi phạm”, tiếp theo số 12 (1329) ngày 21/1/2014 lại đăng bài “Ký kết luận thanh tra, ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng TTCP cắt giảm những khoản gì trong vi phạm của EVN cần xử lý?”.
Theo thông tin từ các bài viết này thì ông Ngô Văn Khánh đã không thực hiện đúng chức trách, cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan TTCP.
Ông Khánh nói gì?
Trả lời phóng viên báo chí về số tài sản "khủng" của mình mà báo chí, dư luận đang xôn xao trong thời gian gần đây, ông Ngô Văn Khánh (Phó tổng Thanh tra Chính Phủ) cho rằng đó là chuyện của cơ quan chứ không còn là của riêng 1 cá nhân.
Ông Khánh cho biết thêm, trong sự việc mà dư luận đang bàn tán trên, ông đã xin ý kiến của Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh.
Sau đó, Tổng Thanh tra Chính phủ đã cho ý kiến rằng: Đây không không phải chuyện của riêng cá nhân tôi nữa. Vì vậy, cơ quan Thanh tra Chính phủ nói riêng và cơ quan chức năng của nhà nước liên quan nói chung sẽ có trả lời chính thức về việc này.
Báo Người Cao tuổi “kết tội” như thế nào?
Lấy lý do nhiều bạn đọc là cán bộ lão thành, cựu chiến binh, người cao tuổi “bức xúc” về những hành vi mờ ám, độc đoán, vụ lợi, bất chấp kỉ cương, cố ý làm trái của ông Ngô Văn Khánh, người thực thi pháp luật, trong tay là “thượng phương bảo kiếm”, đóng vai trò “Bao Công” nhưng không thực hiện đúng chức trách, cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất đoàn kết nội bộ, kỉ cương, phép nước không nghiêm, làm mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan TTCP, đông đảo bạn đọc yêu cầu Báo Người cao tuổi làm rõ thêm vụ việc nghiêm trọng này…
Phải chăng ông Ngô Văn Khánh lừa dối cả Thủ tướng?
Để bảo đảm tính trung thực, khách quan, Báo Người Cao Tuổi trích đăng nội dung “Đơn tố cáo dấu hiệu vi phạm pháp luật của ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng thanh tra Chính phủ” của một số cán bộ đang tại chức dưới quyền của ông Khánh gửi Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi ngày 10/1/2014 nhằm giải đáp thêm những thắc mắc của bạn đọc. Cụ thể như sau:
“Ông Ngô Văn Khánh đã nhân danh cá nhân cố ý loại bỏ ra khỏi Dự thảo Kết luận thanh tra (KLTT) 6.500 tỉ đồng. Dự thảo này trước đó do một Phó Tổng Thanh tra khác ký gửi báo cáo đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý. Trong đó nhiều nội dung loại bỏ khỏi Dự thảo là những vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng đã được chính đối tượng thanh tra (tức EVN – PV) và Đoàn Thanh tra cùng xác nhận. Cụ thể vụ việc như sau:
Tháng 11/2012, trước khi về hưu, Phó Tổng TTCP Nguyễn Văn Sản đã kí báo cáo (VB số 2835/TTCP-V.I ngày 31/10/2012) và Dự thảo KLTT gửi Thủ tướng Chính phủ, ngày 30/11/2012 Văn phòng Chính phủ ra Thông báo số 2024/VPCP-V.I truyền đạt ý kiến của Thủ tướng Chính phủ: “Đồng ý với nội dung dự thảo KLTT tại Văn bản số 2835/TTCP-V.I ngày 31 tháng 10 năm 2012 của Thanh tra Chính phủ…”.
Theo quy trình ban hành KLTT tại TTCP thì sau khi có ý kiến đồng ý của Thủ tướng với Dự thảo KLTT thì sẽ ban hành chính thức KLTT. Vì ông Nguyễn Văn Sản nghỉ hưu từ ngày 1/1/2012 nên sau khi tiếp nhận vụ việc, sau nhiều lần yêu cầu Đoàn Thanh tra sửa lại Dự thảo KLTT theo hướng giảm bớt các nội dung vi phạm nhưng không được 14 thành viên Đoàn Thanh tra nhất trí, nên đến ngày 30/9/2013 ông Ngô Văn Khánh chính thức ký Kết luận số 2181/KL-TTCP ngày 30/9/2013. Nội dung bản kết luận chính thức đã bỏ đi gần 6.500 tỉ đồng được đánh giá là vi phạm cố ý, có hệ thống và được tính toán khá bài bản để cho EVN bù được món thua lỗ hàng chục nghìn tỉ đồng tại trụ sở EVN, đồng thời làm cho các công ty thành viên thuộc EVN luôn trong tình trạng lỗ, là một nguyên nhân để tăng giá điện rất hợp lý mà khó phát hiện ra.
Ông Khánh tự quyết định nhưng lại đổ cho tập thể
Trong cuộc họp báo vào ngày 15/10/2013, ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng TTCP đã viện dẫn 2 nội dung để gán trách nhiệm cho tập thể:
- Căn cứ ý kiến của Vụ Giám sát Thẩm định nên đã thay đổi. Thực tế Vụ Giám sát Thẩm định của TTCP không có ý kiến và không thẩm định các số liệu, chỉ thẩm định các cơ sở pháp lý để đi đến kết luận.
- Cuộc họp của tập thể lãnh đạo TTCP quyết định việc cắt giảm này. Thực tế tập thể lãnh đạo TTCP có họp nhưng không ai có ý kiến cụ thể, chỉ thống nhất giao lại cho Đoàn Thanh tra làm rõ căn cứ pháp lí, trực tiếp báo cáo Phó Tổng TTCP Ngô Văn Khánh. Tổng TTCP Huỳnh Phong Tranh khi phê duyệt tờ trình của Phó Tổng Ngô Văn Khánh trình để ban hành Kết luận cũng chỉ ghi: “Đồng chí Khánh ký và chịu trách nhiệm”. Vụ I (Vụ Quản lý Đoàn Thanh tra) cũng không nhất trí với việc cắt giảm các nội dung so với bản dự thảo; cả 14 thành viên Đoàn Thanh tra không nhất trí với việc cắt giảm các nội dung so với dự thảo.
Như vậy, bản chất vụ việc là cá nhân ông Ngô Văn Khánh tự quyết định việc này nhưng lại thông báo trước báo chí là đã thông qua các đơn vị chức năng và tập thể lãnh đạo TTCP. Căn cứ KLTT được ông Khánh ký mà đã bỏ đi nội dung sai phạm 6.500 tỉ đồng, ngày 9/12/2013 Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản 442/TB-VPCP thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý sau thanh tra tại EVN, trong đó đã không có những nội dung đã được bỏ đi trong dự thảo KLTT”.
Ông Ngô Văn Khánh bỏ đi 6.500 tỉ đồng như thế nào?
Báo Người Cao Tuổi đã dẫn chứng đầy đủ cách thức mà ông Khánh bỏ qua số tiền khổng lồ của EVN làm sai quy định để có lý do tăng tiền điện của dân. Nhưng quá nhiều chi tiết nên tôi chỉ xin tóm tắt để bạn đọc dễ theo dõi.
- Việc EVN chuyển lỗ từ Tập đoàn xuống các công ty 3.366 tỉ đồng bằng cách EVN tự quy định giá bán buôn nội bộ trái quy định của Nhà nước:
Nội dung 1: Theo Thông tư 08/2010/TT-BCT ngày 24/2/2010 giá bán buôn quy định là 718,1 đồng/kW; Thông tư 05/2011/TT-BCT ngày 25/2/2011 giá bán buôn quy định là 891,4 đồng/kW. Nhưng EVN đã tự ý xác định giá bán buôn nội bộ bình quân năm 2011 là 978,78 đồng/kW. Hậu quả làm cho các Tổng Công ty lỗ hơn 3.366 tỉ đồng – tương ứng làm tăng thu cho EVN số tiền này. Bản chất là cố ý vi phạm thẩm quyền để tăng thu nhằm bù vào khoản lỗ tại Tập đoàn.
Nội dung 2: EVN tự ý phê duyệt chi phí truyền tải cho Tổng Công ty Truyền tải điện Quốc gia (NPT) thấp hơn chi phí truyền tải do Bộ Công Thương phê duyệt làm giảm doanh thu của NPT và tăng doanh thu cho EVN trên 165,5 tỉ đồng (chênh lệch giá thấp hơn giá của Bộ Công Thương quy định tại Thông tư nêu trên là 12,57 đồng x 13.162 triệu kW) tương đương số thuế thu nhập doanh nghiệp trốn là 41,3 tỉ đồng. Bên cạnh đó, do việc để lỗ ở Tập đoàn thì không có cách nào bù đắp được, do đó việc cố ý chuyển lỗ xuống các tổng công ty giải quyết được hai việc:
1- Che giấu được số lỗ do đầu tư (ngoài ngành) trái quy định và không hiệu quả tại EVN và không thể hạch toán được vào giá thành điện.
2- Việc tất cả các công ty sản xuất kinh doanh thuộc EVN luôn báo lỗ thì sẽ là cơ sở giải trình rất hợp lý để tăng giá điện.
- EVN bán điện cho “một nhóm đối tượng” với giá thấp hơn giá bình quân dẫn đến “chịu lỗ thay” cho nhóm này 2.421 tỉ đồng/ năm. Số lỗ này lại đưa vào giá điện. EVN đã tự quyết định giá bán điện cho một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thép, xi-măng với giá thấp hơn giá bán điện bình quân với tổng sản lượng gần 11 triệu kWh chiếm gần 11,5% sản lượng điện thương phẩm trong năm 2011 và EVN đã phải “chịu lỗ” thay cho các doanh nghiệp kinh doanh sắt thép, xi-măng (bao gồm cả các doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…) số tiền hơn 2.100 tỉ đồng. Trong khi các doanh nghiệp này luôn báo lãi hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng (công bố công khai trên thị trường chứng khoán). Tổng Công ty Điện lực Miền Nam đã bán điện cho các tổ chức bán điện với giá thấp hơn giá bình quân và đã phải chịu lỗ hơn 211 tỉ đồng. Số tiền này các tổ chức bán điện ở nông thôn được hưởng lợi chứ người dân không được hưởng, vì người dân vẫn phải mua điện với giá cao như bình thường.
- EVN cho vay và thu phí trái quy định 112 tỉ đồng nhưng lại đi vay 2.350 tỉ đồng và trả lãi hàng trăm tỉ đồng cho Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại không thuộc Tập đoàn.
Bản chất vẫn là biện pháp EVN tăng thu về để bù đắp khoản lỗ khổng lồ và các công ty sản xuất kinh doanh trực tiếp lại bị tăng chi phí làm tăng giá thành điện.
Báo Người Cao Tuổi kết luận:
Ông Ngô Văn Khánh, Phó Tổng TTCP đã lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng danh nghĩa tập thể lãnh đạo TTCP công nhiên giúp một số cá nhân trong EVN che giấu các hành vi vi phạm pháp luật, che giấu sự thật trước Thủ tướng Chính phủ và toàn thể nhân dân, để người dân chịu tăng giá điện là dấu hiệu một nhóm người đang thao túng chính sách!
Chúng tôi trân trọng kính đề nghị các cơ quan pháp luật chỉ đạo làm rõ vụ việc đặc biệt nghiêm trọng này, hơn nữa nó lại do một vị lãnh đạo của cơ quan đứng đầu về chống tham nhũng thực hiện”.
Kê khai tài sản chỉ là hình thức
Hiện nay dư luận cả nước ngày càng nóng quanh những bài báo viết về khối tài sản rất lớn của quan chức đang công tác tại Thanh tra Chính phủ. Không thể nào tránh khỏi chuyện bàn tán khi nhìn vào khối tài sản rất lớn mà vị quan chức này kê khai.
Tính sơ thì số tài sản này lớn hơn rất nhiều mức thu nhập của vị quan chức. Nói cách khác, nếu chỉ dựa vào đồng lương cán bộ, công chức thì không thể dành dụm được số tài sản lớn tới vậy, cho dù có mức lương cao nhất trong hệ thống hành chính của VN đi chăng nữa.
Theo Luật Phòng chống tham nhũng - có hiệu lực từ năm 2007-việc kê khai tài sản của cán bộ, công chức được coi là một biện pháp quan trọng để phòng chống tham nhũng. Quan trọng là thế song việc kê khai tài sản hằng năm thường diễn ra một cách hình thức, hời hợt theo kiểu làm cho có. Cán bộ, công chức cứ “tự giác” kê khai rồi để đấy mà chưa thấy trường hợp nào phải yêu cầu giải trình, làm rõ để từ đó có thể phát hiện tham nhũng, tiêu cực, nhất là đối với những trường hợp có tài sản lớn hơn nhiều lần so với đồng lương cán bộ, công chức.
Nếu chỉ dựa vào sự tự giác mà không đi kèm với kiểm tra, xác minh tường tận thì việc kê khai tài sản sẽ chỉ là hình thức và không thể trở thành một biện pháp để ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực.
Những khoảng trống của pháp luật VN
Ở một số nước, với những quan chức Chính phủ, người lãnh đạo trong cơ quan bảo vệ pháp luật, quy định pháp luật khá cụ thể, rõ ràng nhằm minh bạch, công khai tài sản của người đó và đó là một giải pháp chống tham nhũng, rửa tiền khá hiệu quả. Chẳng hạn, theo các quy định luật về phòng, chống tham nhũng của Pháp, nếu một cán bộ không thể giải thích đầy đủ nguồn gốc tài sản thì tài sản đó có thể bị tịch thu.
Còn ở Việt Nam, pháp luật hiện hành chưa quy định về kê khai, công khai tài sản của cán bộ do Trung ương quản lý nhưng đã nghỉ hưu. Đây là một kẽ hở mà thực tế, đã có nhiều ví dụ cho thấy, cán bộ, quan chức cao cấp, sau khi nghỉ hưu mới mua sắm xe hơi đắt tiền, xây biệt thự khủng… để tránh việc quản lý về kê khai, công khai tài sản hiện hành và cũng để tránh điều tiếng khi còn đương chức.
Đáng lưu ý, theo tìm hiểu của báo Pháp Luật về kê khai, công khai tài sản của Việt Nam hiện nay mới chỉ quy định trách nhiệm giải trình về nguồn gốc tài sản với khối tài sản tăng thêm (tài sản là bất động sản hoặc tài sản khác có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên) chứ không quy định trách nhiệm giải trình nguồn gốc với toàn bộ khối tài sản. Quy định về giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm này cũng chỉ mới được thực hiện từ năm 2013.
Ngoài ra, ngay cả trường hợp phát hiện kê khai, giải trình không trung thực hoặc không kê khai thì cán bộ liên quan cũng chỉ chịu các hình thức kỷ luật tương ứng với mức cao nhất là bị cách chức.
Riêng khối tài sản bất minh (không giải trình được nguồn gốc) thì chưa có văn bản quy định nào đề cập đến việc xử lý. Cũng không có quy định nào về việc phải xem các vụ việc tài sản bất minh ấy là dấu hiệu để điều tra hành vi tham nhũng của những người liên quan.
Rõ ràng, đây là những kẽ hở pháp luật mà Việt Nam cần phải tiến tới hoàn thiện để phù hợp với đòi hỏi từ yêu cầu chống quốc nạn tham nhũng.
Theo báo VNNet: Một đặc điểm thực tế rất căn bản giữa quan chức các quốc gia văn minh và quan chức nước Việt có nhiều khác biệt. Ở các quốc gia văn minh, nhiều vị trước khi trở thành quan chức cao cấp, đều đã là những doanh nhân, đại gia giàu có, có đầu óc hơn người. Còn ở xã hội VN, nhiều vị quan chức chỉ trở nên giàu có hơn người sau khi có "cái ghế". Thế nên mới có khái niệm đặc quyền, đặc lợi là vậy.
Và vì công khai, minh bạch còn là… của quý và hiếm, nên những vụ biệt thự, dinh thự khủng của các quan chức cứ nổi lên giữa cơn bão dư luận, để rồi ít lâu, lại từ từ chìm xuồng.
Thật ra việc kê khai tài sản muốn có hiệu quả thiết thực cần phải có sự giám sát của người dân và trách nhiệm của nhà nước là phải công khai trả lời tiếng nói của công luận. Người dân đang trông đợi Chính Phủ trả lời về tài sản của hai ông đứng đầu ngành thanh tra, một đã “hạ cánh” và một vị còn đương chức. Nếu tài sản của các ông ấy làm ra cần chứng minh đầy đủ để người dân được biết, nếu còn mập mờ, có dấu hiệu như kê gian thì đúng là đã có tham nhũng, cần phải trừng trị đúng pháp luật để tìm lại chút niềm tin cho người dân.
Xăng dầu
"tranh thủ" giờ nghỉ trưa để tăng giá
Tin chót: Xăng tăng gần 200 đồng/lít
Trưa ngày 19-3-2014, nhiều cây xăng “tranh thủ” tăng giá sớm khiến dân lao động đã túng thiếu quanh năm lại càng lao đao thêm!
Văn Quang
Khai Dân Trí | Văn Quang |
2014/03/21
Những Con Bò Sữa Việt Kiều
Những Con Bò
Sữa Việt Kiều
Hạnh Lam
Cách đây 39 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge,
thuộc Hạm Đội thứ 7, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền
nhấp nhô như lá tre trôi trên biển.
Nguời ta thấy những chiếc thuyền đủ loại, đủ cỡ của những
nguời Việt Nam
đầu tiên trốn chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai
trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó
có thể tiên đoán được điều gì?
Người ta nhận thấy có nhiều ký giả Mỹ và một số những
nhân vật trong chính quyền Mỹ trên chiến hạm Blue Ridge. Chẳng hạn như Frank
Snepp, tác giả các cuốn sách: Decent Interval và An Insider Account of Saigon,
David Halberstam với The best and the Brightest và một số người khác như H.R.
Haldeman, Stanley Karnow.
Karnow nhìn David Halberstam như chế nhạo nói:
- Này anh, cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức
của những người như anh?
Halberstam đáp:
Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của
người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Ðâu có phải chỉ có sức mạnh của B52? Anh đồng
ý chứ !
Và hôm nay, chúng ta là những nhân chứng duy nhất và
cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy này. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của
tôi và anh ở đây.
Karnow:
- Phần tôi, sẽ không bao giờ quên được câu chuyện ngày
hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ.
Trên ca bin chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta
nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với Henry Kissinger. Kissinger hỏi
viên chỉ huy trưởng:
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn
không? Trong một giờ nữa mà ông Đại Sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của
ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ là một thất bại?
- Thưa ông Kissinger, tôi được biết, ông Đại Sứ còn
nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần phải được cứu vớt.
Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe:
- Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập
tức rời VN. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn 'chó chết' đó chưa chết
phứt đi cho rồi.
Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đã đưa ra nhận
xét: Ông Kissinger và Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Thọ cũng gọi bọn người
đang lố nhố trốn chạy dưới kia là những đống rác rưởi mà chúng tôi cần tống ra
biển. Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống
khứ đi cho rồi.
Chẳng bao lâu sau, đại sứ Martin đã có mặt trên chiến
hạm và ông đã nhận được một công điện của H. Kissinger đánh đi như sau:
"Người Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì khi rút đi cũng
như vậy. Ðó là thành công của ông, của chúng ta. Congratulations! "
Ngay sau đó, Đại Sứ Martin nhận được từ dưới bong tầu
chỉ huy, một cựu tướng VN muốn xin gặp. Ông Martin đã từ chối và nói với viên sĩ
quan tùy tùng nhắn lại:
"Nói với ông ta, ở đây không phải Sài Gòn mà là nước
Mỹ trên biển. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người "vô tổ quốc".
Phải cởi bỏ lon lá, không được tuyên bố gì."
Người tùy tùng tuân lệnh và nói thêm rằng, ông cựu tướng
đó dơ hai tay lên trời với cử chỉ tuyệt vọng, ngửa mặt lên trời và kêu lên rằng:
"Ta thề có trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về."
Lúc này, có lẽ chữ bỏ chạy là đúng nghĩa nhất. Chỉ biết
bỏ chạy đã. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc
quan nhất. Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã
được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7.
Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi! Số
phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre?
Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ.
Bằng mọi giá, họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại,
nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy.
Những cái "sô" vớt người trên biển trong tuần
lễ cuối cùng của tháng Tư và đầu tháng Năm của người Mỹ cũng nói lên được điều
này: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng,
ngay cả việc trốn chạy.
Ðó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy
trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển...
Hãy cứ tưởng tượng, trong số 250 ngàn người đó, ít ra
cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh người lếch thếch, lang
thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn.
Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những
người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không
có một chút hy vọng gì về tương lai cả.
Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt
Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà nội như "đi
vùng kinh tế mới", "học tập cải tạo", "đánh tư sản, mại bản",
và cuối cùng "đi bán chính thức" nhằm vào giới Hoa Kiều.
Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi
khỏi nước. Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa
kể những người bỏ xác trên biển cả.
Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng
ai có thì giờ tìm hiểu. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng
nguôi ngoai để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.
Tất cả những chính sách vừa kể trên của nhà cầm quyền
CS là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai
Mỹ Ngụy.
Và đối với nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có hai cách để
" làm vệ sinh miền Nam"
là: Tống xuất bọn rác rưởi ra biển hoặc cho đi tù cải tạo.
Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước
không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước
ngoài sinh sống.
Và cuối cùng để giữ thể diện hoặc để trao đổi trong thương
thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình
"ra đi trong vòng trật tự" (Orderly Departure Program). Thảm cảnh
thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ.
Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo
ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier
noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu "Những
con bò sữa thuyền nhân".
Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay
ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất
cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc,
nhà cửa ruộng vườn.
Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó? Vắt
lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về. Việc ra đi theo diện người Hoa, đi bán
chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ.
Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm "nhổ
sạch lông" những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện
nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng.
Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới
là quan trọng.
Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi
tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Cho mãi đến năm 1990, cũng
còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian.
Nói chung họ coi đó là thành phần
rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một
cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài.
Nghĩa là có sự phân biệt đối xử
giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.
Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam
Thương tín để chúng ta hiểu rõ Cộng Sản hơn. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra
ngày 3/7/77, trang ba viết như sau:
"Luật lệ trừng phạt những kẻ
phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn
định rõ như sau: "Tội chạy trốn theo hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc
vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù.
Trong những trường hợp đặc biệt
và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay tử hình." Số
phận những người đi tàu Thương tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi
Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái...
Về phía những người Việt Hải ngoại,
xin được nhắc mọi người đến những hoài niệm của những năm đầu ở Hải ngoại để
cho thấy tâm trạng chúng ta lúc bấy giờ như thế nào?
Những nhà văn đã thay chúng ta
nói lên những tâm trạng đó. Có thể là bài viết của Nguyễn Ðình Toàn: Sài Gòn,
niềm nhớ không không tên, kỷ niệm 30/04. Và nỗi ray rứt trong tập thơ mỏng của
Cao Tần nói lên đủ.
Vài câu thơ góp nhặt đó đây để
cùng nhớ lại:
Thù quê hương
như tên hề ốm nặng
Hôn tang thương
sau mặt nạ tươi cười
Ôi trong ví
mỗi người dân mất nước
Còn một oan
hồn mặt muĩ ngu ngơ
Thù hận bọn
làm nước ông nghèo xí
Hận gấp
nghìn lần khi chúng đánh ông vang
Nếu mai mốt
bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng
ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra
nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước
vào học tập yêu thương
Và trong số Văn Học Nghệ Thuật, số
1, có bài phỏng vấn người nhạc si tài danh với câu trả lời: “Buồn lắm. Nhớ Việt
Nam quá. Thương quá Việt Nam.” nói theo kiểu Phạm Thế Mỹ. Và cứ thế. Ai là người
tuôn ra những câu thơ ở thị trấn giữa đàng những ngày tháng tư đen:
Xin cúi đầu
mình xuống
Khóc quê hương,
trói trong tay bạo cường.
Xin cúi đầu
một phút
Nhớ anh em,
sống trong ngục, trong tù
Nuôi cho sâu
hận thù
Mong và chờ,
về Việt Nam ước mơ
Một ngày bảy
lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ
xua con ra đại dương
Đời hai lần
ta bỏ quê, bỏ nước
Phải nuôi
ngày sau về ôm tổ quốc …
Ta phải về,
ta chiếm lại quê huong
Ta phải về
xây lại đời ta
Ta chống Cộng,
ta không trốn Cộng
Ta và cả trăm
ngàn đồng hương
Mai nay rồi,
ta về VN mến yêu.
Thời ấy nay còn đâu. Rồi cứ như
thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt
buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn.
Không ai có thể từ chối được những
món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la
tình nghia hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi
như kẻ thù.
Gió đã đổi chiều, nên ngôn ngữ cũng
đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Son Nhứt đến Nội
Bài, chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười. Lúc ra đi trốn
chui, trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.
Những thành phần rác rưởi ta vừa
nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà
người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước
Việt Nam hùng mạnh.
Ðã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy
ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình, đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.
Những anh thuyền chài có thể ra đi
vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ
oe oé.
Kể gì đến những hiện tượng nhỏ
nhoi đó. Ðã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người
Việt di tản, nhất là nơi người trẻ.
Họ không còn là cô nữ sinh cười e
lệ, hỏi không dám mở lời. Ngày nay họ là những chuyên viên hàng đầu của xã hội
Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ.
Có người trong bọn họ, cùng với bạn
đầu tư nửa tỷ đô la tại noi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh
trong tương lai trở thành biểu tượng "thung lũng của ngành tin học".
Và cái kim chỉ đường cho người Việt
tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc
về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.
Không phải do một thiểu số những
người lớn tuổi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà
quên phần cuối.
Những câu truyện do người lớn kể
ngày càng nhạt phèo như nước ốc.
Phải chăng thời của họ đã hết? Họ
bám víu vào những bèo bọt mà chính họ cũng chẳng còn thiết tha gì. Nhưng nếu
không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?
Phải chăng cuộc ra đi bất hạnh
nay đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi
tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi?
Hãy nhìn vào những con số để nhận
ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, mới chỉ có 8 ngàn người
về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm
2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ
lẽ ra.
Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một
số tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm
2003, Việt Năm xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng
của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?
Có một điều, nhiều người vô tình
quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách
tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu?
Trong số 300.000 người Việt về thăm
quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một
tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương,
cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu thêm không nhỏ.
Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng
đầy hứa hẹn. Ðó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói. 10 năm nữa,
dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người mỗi năm như Thái Lan hiện nay, với
các đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu.
Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy
ra. Lúc đó, tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết
60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.
Điều đáng nói hon nữa là nay có một
số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với gần 100 dự án được chấp nhận với số
vốn đầu tư con số xấp xỉ một tỉ đô la.
Những Việt kiều như Nguyễn Chánh
Khê với phát minh chế tạo thành công Carbon Nanotube (áp dụng vào việc sản xuất
mực in và các sản phẩm công nghệ cao khác) không phải là hiếm.
Dự án khu khách sạn Sofitel
Vinpearl Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre nay đã thành sự thực. Nha Trang đã
khánh thành khu Vinpearl Resort vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng.
Phần lớn các số tiền đầu tư này tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.
Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc
lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật
ngọt đã hẳn là không thiếu.
Gió chướng đã không còn nữa. Gió đã
đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm
đau lòng nhau nữa.
Trên tất cả các sách báo, trên
các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến
chế độ miền Nam trước đây nữa (1) Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn
tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.
Ngược lại không thiếu những chữ mật
ngọt như "Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay
chào đón những người con xa xứ".
"Nhà nước bảo hộ quyền lợi
chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với
quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước".
Luật quốc tịch điều hai thì viết
rõ ràng thế này: "Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam. Người
Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam."
Nhà nước lại còn trích dẫn câu
nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: "Tổ quốc
và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người
con đi vắng." (Hồ Chí Minh nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960)
Từ Sài Gòn ra biển đông
(30/4/1975). Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay
và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được.
39 năm sau, câu chuyện kể về thuyền
nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia, nhiều người đã quên hoặc cố tình
quên.
Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà
nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền đô la từ mọi nơi gửi về cũng như
người Việt mang tiền về nước.
Mang tiền về thì được chứ đừng
mang chữ về. Chữ hiểu theo nghia rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ
thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm
trong tay đảng.
Nó nằm trong một hệ thống khép
kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị. (Ideology,
terror and totalitarian government).
Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người
ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm: chẳng hạn cờ bạc,
chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu,
gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn
vừa chơi đủ kiểu, đi điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu.
Lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian
trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công
an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa
phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp
xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng
đụng đến chính trị. Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những
đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến
chính trị.
Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều
bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già
với xe hoi SUV.
Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông
tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, đường hầm Hải Vân nối
liền Nam Bắc hoàn tất thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra
nó nữa.
Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà
"Làng Việt Kiều". Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự
sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada. Người ta thấy những Việt Kiều lái những
chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn.
Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu
cam kiểu California, có những hàng dừa cọ, những hồ bơi với những hàng chữ tiếng
Anh: "Welcome!"
Ðây là, chẳng phải ai khác, mà là
những người di tản, những rác rưởi 32 năm về trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã
bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
Chẳng hạn, anh chàng Võ Quy, kèm
theo cái tên Larry. Và vô số những tên như thế Catherine, Julie, Elizabeth,
Brigitte, Linda. Nay Võ Quy đã gần 70 tuổi, trước đây là một sĩ quan không
quân, quân đội VNCH.
Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern
Califronia cách đây 6 năm cùng với vợ, Linda, còn có tên cúng cơm là Ngọc để về
ở đây.
Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh
diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox (thép không rỉ), phòng tắm lớn
có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn.
Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm:
"Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ,
còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều."
Thiệt là Việt Kiều.
Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả
bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có
những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án "thành phố
xanh" (Green city).
Cái điều oái ăm đến quái gở là
khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhớ đến Sài gòn, tìm cách đặt tên Little
Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Ðịnh, bánh cuốn Ðakao, Restaurant Hoài Hương, Phở
Hà Nội, Brodard restaurant, phở Nguyễn Huệ để nhớ về miền Nam thân yêu.
Nay ở Việt Nam người ta lại muốn đặt
tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali ”, “tiểu Fairfax ” để nhớ đến. Và cứ
như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc,
Mỹ Hóa của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.
Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi
ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những
người đồng bào của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ
chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ.
Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực
tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta,
đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ỉ cả lên.
Anh bực tức nói: Như thế không phải
lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp. Như thế là thiếu văn minh.
Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn
hoá Việt, không muốn trở thành một mẩu trong Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt
con đi học tiếng Việt. Về Việt Nam, mở mồm là anh chỉ xổ tiếng Mỹ.
Cái mâu thuẫn như thế rất là Việt
Nam. Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái
tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại
trước.
Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35
tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như
không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN. Nhưng anh cũng có một
vài nỗi khổ vặt khác.
Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc
gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh
cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền.
Nhất là các cô thiếu nữ trông khả
ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai. Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh
ai nấy sống chen lấn chụp giựt.
Nguyễn Anh hơi buồn về con người
Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết
người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại
không hiểu gì về người mình.
Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh
không hiểu được là người Việt Nam "Xem thể thao" chứ không chơi thể
thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài
truyền hình theo dõi một trận đá banh.
Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ
có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể
còn cá độ. Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc.
Lại một điều nữa, Nguyễn Anh
không hiểu được. Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon,
Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân choi nổi tiếng
là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.
Nhưng có người thấy như thế thì lấy
làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi
đâu chả được. Phí tiền nữa.
Ngưyễn Anh không đáp lại, vì anh
có cái lý của anh. Ðúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng
ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.
Còn về thanh niên, thiếu nữ thì
chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra
là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng
cho một câu.
Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ.
Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống
Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.
Những vị lãnh đạo trong nước thì
nghĩ rằng:
Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những
người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền
trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến
tranh lần nữa.
Gió chướng đổi chiều đến đâu có thể còn chưa biết rõ được.
Tôi tự hỏi bao giờ làn gió chướng đó cùng với con lốc đầu tư tư bản đánh bật chủ
nghĩa Cộng Sản ra biển?
Chỉ có một điều tôi biết chắc rằng, ngay cả những người
theo làn gió chướng đổi chiều, đã về VN. Họ cũng cảm thấy họ chẳng sung sướng
gì, đôi khi tỏ ra buồn phiền, nghi kỵ, thất vọng không muốn nói ra.
Ðó là trường hợp hợp ông Nguyễn Cao Kỳ. Ðó cũng là trường
hợp một người trong số 17 người vừa được vinh danh "Vinh Danh Việt Nam –
2006"?
Tôi có cảm tưởng họ đang chơi một canh bạc giả, biết
như thế mà vẫn chơi, chơi cho biết. Gió chướng đã đổi chiều? Nhưng đổi thế nào
thì còn chưa nói được.
Bảng chỉ đường đất nước vẫn còn có thể chỉ trật đường.
Xin dè dặt. Thận trọng và khôn ngoan để đừng thêm một lần nữa mắc mưu Cộng Sản
lừa phỉnh./.
Hạnh Lam
Khai Dân Trí | Hạnh Lam |
Subscribe to:
Posts (Atom)