Những Con Bò
Sữa Việt Kiều
Hạnh Lam
Cách đây 39 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge,
thuộc Hạm Đội thứ 7, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền
nhấp nhô như lá tre trôi trên biển.
Nguời ta thấy những chiếc thuyền đủ loại, đủ cỡ của những
nguời Việt Nam
đầu tiên trốn chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai
trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó
có thể tiên đoán được điều gì?
Người ta nhận thấy có nhiều ký giả Mỹ và một số những
nhân vật trong chính quyền Mỹ trên chiến hạm Blue Ridge. Chẳng hạn như Frank
Snepp, tác giả các cuốn sách: Decent Interval và An Insider Account of Saigon,
David Halberstam với The best and the Brightest và một số người khác như H.R.
Haldeman, Stanley Karnow.
Karnow nhìn David Halberstam như chế nhạo nói:
- Này anh, cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức
của những người như anh?
Halberstam đáp:
Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của
người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Ðâu có phải chỉ có sức mạnh của B52? Anh đồng
ý chứ !
Và hôm nay, chúng ta là những nhân chứng duy nhất và
cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy này. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của
tôi và anh ở đây.
Karnow:
- Phần tôi, sẽ không bao giờ quên được câu chuyện ngày
hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ.
Trên ca bin chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta
nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với Henry Kissinger. Kissinger hỏi
viên chỉ huy trưởng:
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn
không? Trong một giờ nữa mà ông Đại Sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của
ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ là một thất bại?
- Thưa ông Kissinger, tôi được biết, ông Đại Sứ còn
nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần phải được cứu vớt.
Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe:
- Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập
tức rời VN. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn 'chó chết' đó chưa chết
phứt đi cho rồi.
Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đã đưa ra nhận
xét: Ông Kissinger và Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Thọ cũng gọi bọn người
đang lố nhố trốn chạy dưới kia là những đống rác rưởi mà chúng tôi cần tống ra
biển. Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống
khứ đi cho rồi.
Chẳng bao lâu sau, đại sứ Martin đã có mặt trên chiến
hạm và ông đã nhận được một công điện của H. Kissinger đánh đi như sau:
"Người Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì khi rút đi cũng
như vậy. Ðó là thành công của ông, của chúng ta. Congratulations! "
Ngay sau đó, Đại Sứ Martin nhận được từ dưới bong tầu
chỉ huy, một cựu tướng VN muốn xin gặp. Ông Martin đã từ chối và nói với viên sĩ
quan tùy tùng nhắn lại:
"Nói với ông ta, ở đây không phải Sài Gòn mà là nước
Mỹ trên biển. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người "vô tổ quốc".
Phải cởi bỏ lon lá, không được tuyên bố gì."
Người tùy tùng tuân lệnh và nói thêm rằng, ông cựu tướng
đó dơ hai tay lên trời với cử chỉ tuyệt vọng, ngửa mặt lên trời và kêu lên rằng:
"Ta thề có trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về."
Lúc này, có lẽ chữ bỏ chạy là đúng nghĩa nhất. Chỉ biết
bỏ chạy đã. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc
quan nhất. Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã
được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7.
Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi! Số
phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre?
Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ.
Bằng mọi giá, họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại,
nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy.
Những cái "sô" vớt người trên biển trong tuần
lễ cuối cùng của tháng Tư và đầu tháng Năm của người Mỹ cũng nói lên được điều
này: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng,
ngay cả việc trốn chạy.
Ðó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy
trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển...
Hãy cứ tưởng tượng, trong số 250 ngàn người đó, ít ra
cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh người lếch thếch, lang
thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn.
Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những
người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không
có một chút hy vọng gì về tương lai cả.
Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt
Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà nội như "đi
vùng kinh tế mới", "học tập cải tạo", "đánh tư sản, mại bản",
và cuối cùng "đi bán chính thức" nhằm vào giới Hoa Kiều.
Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi
khỏi nước. Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa
kể những người bỏ xác trên biển cả.
Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng
ai có thì giờ tìm hiểu. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng
nguôi ngoai để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.
Tất cả những chính sách vừa kể trên của nhà cầm quyền
CS là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai
Mỹ Ngụy.
Và đối với nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có hai cách để
" làm vệ sinh miền Nam"
là: Tống xuất bọn rác rưởi ra biển hoặc cho đi tù cải tạo.
Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước
không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước
ngoài sinh sống.
Và cuối cùng để giữ thể diện hoặc để trao đổi trong thương
thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình
"ra đi trong vòng trật tự" (Orderly Departure Program). Thảm cảnh
thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ.
Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo
ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier
noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu "Những
con bò sữa thuyền nhân".
Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay
ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất
cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc,
nhà cửa ruộng vườn.
Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó? Vắt
lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về. Việc ra đi theo diện người Hoa, đi bán
chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ.
Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm "nhổ
sạch lông" những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện
nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng.
Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới
là quan trọng.
Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi
tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Cho mãi đến năm 1990, cũng
còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian.
Nói chung họ coi đó là thành phần
rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một
cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài.
Nghĩa là có sự phân biệt đối xử
giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.
Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam
Thương tín để chúng ta hiểu rõ Cộng Sản hơn. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra
ngày 3/7/77, trang ba viết như sau:
"Luật lệ trừng phạt những kẻ
phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn
định rõ như sau: "Tội chạy trốn theo hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc
vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù.
Trong những trường hợp đặc biệt
và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay tử hình." Số
phận những người đi tàu Thương tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi
Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái...
Về phía những người Việt Hải ngoại,
xin được nhắc mọi người đến những hoài niệm của những năm đầu ở Hải ngoại để
cho thấy tâm trạng chúng ta lúc bấy giờ như thế nào?
Những nhà văn đã thay chúng ta
nói lên những tâm trạng đó. Có thể là bài viết của Nguyễn Ðình Toàn: Sài Gòn,
niềm nhớ không không tên, kỷ niệm 30/04. Và nỗi ray rứt trong tập thơ mỏng của
Cao Tần nói lên đủ.
Vài câu thơ góp nhặt đó đây để
cùng nhớ lại:
Thù quê hương
như tên hề ốm nặng
Hôn tang thương
sau mặt nạ tươi cười
Ôi trong ví
mỗi người dân mất nước
Còn một oan
hồn mặt muĩ ngu ngơ
Thù hận bọn
làm nước ông nghèo xí
Hận gấp
nghìn lần khi chúng đánh ông vang
Nếu mai mốt
bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng
ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra
nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước
vào học tập yêu thương
Và trong số Văn Học Nghệ Thuật, số
1, có bài phỏng vấn người nhạc si tài danh với câu trả lời: “Buồn lắm. Nhớ Việt
Nam quá. Thương quá Việt Nam.” nói theo kiểu Phạm Thế Mỹ. Và cứ thế. Ai là người
tuôn ra những câu thơ ở thị trấn giữa đàng những ngày tháng tư đen:
Xin cúi đầu
mình xuống
Khóc quê hương,
trói trong tay bạo cường.
Xin cúi đầu
một phút
Nhớ anh em,
sống trong ngục, trong tù
Nuôi cho sâu
hận thù
Mong và chờ,
về Việt Nam ước mơ
Một ngày bảy
lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ
xua con ra đại dương
Đời hai lần
ta bỏ quê, bỏ nước
Phải nuôi
ngày sau về ôm tổ quốc …
Ta phải về,
ta chiếm lại quê huong
Ta phải về
xây lại đời ta
Ta chống Cộng,
ta không trốn Cộng
Ta và cả trăm
ngàn đồng hương
Mai nay rồi,
ta về VN mến yêu.
Thời ấy nay còn đâu. Rồi cứ như
thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt
buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn.
Không ai có thể từ chối được những
món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la
tình nghia hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi
như kẻ thù.
Gió đã đổi chiều, nên ngôn ngữ cũng
đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Son Nhứt đến Nội
Bài, chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười. Lúc ra đi trốn
chui, trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.
Những thành phần rác rưởi ta vừa
nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà
người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước
Việt Nam hùng mạnh.
Ðã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy
ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình, đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.
Những anh thuyền chài có thể ra đi
vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ
oe oé.
Kể gì đến những hiện tượng nhỏ
nhoi đó. Ðã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người
Việt di tản, nhất là nơi người trẻ.
Họ không còn là cô nữ sinh cười e
lệ, hỏi không dám mở lời. Ngày nay họ là những chuyên viên hàng đầu của xã hội
Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ.
Có người trong bọn họ, cùng với bạn
đầu tư nửa tỷ đô la tại noi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh
trong tương lai trở thành biểu tượng "thung lũng của ngành tin học".
Và cái kim chỉ đường cho người Việt
tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc
về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.
Không phải do một thiểu số những
người lớn tuổi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà
quên phần cuối.
Những câu truyện do người lớn kể
ngày càng nhạt phèo như nước ốc.
Phải chăng thời của họ đã hết? Họ
bám víu vào những bèo bọt mà chính họ cũng chẳng còn thiết tha gì. Nhưng nếu
không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?
Phải chăng cuộc ra đi bất hạnh
nay đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi
tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi?
Hãy nhìn vào những con số để nhận
ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, mới chỉ có 8 ngàn người
về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm
2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ
lẽ ra.
Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một
số tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm
2003, Việt Năm xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng
của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?
Có một điều, nhiều người vô tình
quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách
tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu?
Trong số 300.000 người Việt về thăm
quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một
tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương,
cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu thêm không nhỏ.
Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng
đầy hứa hẹn. Ðó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói. 10 năm nữa,
dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người mỗi năm như Thái Lan hiện nay, với
các đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu.
Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy
ra. Lúc đó, tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết
60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.
Điều đáng nói hon nữa là nay có một
số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với gần 100 dự án được chấp nhận với số
vốn đầu tư con số xấp xỉ một tỉ đô la.
Những Việt kiều như Nguyễn Chánh
Khê với phát minh chế tạo thành công Carbon Nanotube (áp dụng vào việc sản xuất
mực in và các sản phẩm công nghệ cao khác) không phải là hiếm.
Dự án khu khách sạn Sofitel
Vinpearl Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre nay đã thành sự thực. Nha Trang đã
khánh thành khu Vinpearl Resort vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng.
Phần lớn các số tiền đầu tư này tập
trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.
Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc
lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật
ngọt đã hẳn là không thiếu.
Gió chướng đã không còn nữa. Gió đã
đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm
đau lòng nhau nữa.
Trên tất cả các sách báo, trên
các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến
chế độ miền Nam trước đây nữa (1) Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn
tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.
Ngược lại không thiếu những chữ mật
ngọt như "Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay
chào đón những người con xa xứ".
"Nhà nước bảo hộ quyền lợi
chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với
quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước".
Luật quốc tịch điều hai thì viết
rõ ràng thế này: "Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam. Người
Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt
Nam."
Nhà nước lại còn trích dẫn câu
nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: "Tổ quốc
và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người
con đi vắng." (Hồ Chí Minh nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960)
Từ Sài Gòn ra biển đông
(30/4/1975). Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay
và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được.
39 năm sau, câu chuyện kể về thuyền
nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia, nhiều người đã quên hoặc cố tình
quên.
Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà
nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền đô la từ mọi nơi gửi về cũng như
người Việt mang tiền về nước.
Mang tiền về thì được chứ đừng
mang chữ về. Chữ hiểu theo nghia rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ
thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm
trong tay đảng.
Nó nằm trong một hệ thống khép
kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị. (Ideology,
terror and totalitarian government).
Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người
ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm: chẳng hạn cờ bạc,
chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu,
gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn
vừa chơi đủ kiểu, đi điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu.
Lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian
trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công
an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa
phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp
xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng
đụng đến chính trị. Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những
đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến
chính trị.
Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều
bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già
với xe hoi SUV.
Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông
tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, đường hầm Hải Vân nối
liền Nam Bắc hoàn tất thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra
nó nữa.
Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà
"Làng Việt Kiều". Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự
sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada. Người ta thấy những Việt Kiều lái những
chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn.
Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu
cam kiểu California, có những hàng dừa cọ, những hồ bơi với những hàng chữ tiếng
Anh: "Welcome!"
Ðây là, chẳng phải ai khác, mà là
những người di tản, những rác rưởi 32 năm về trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã
bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
Chẳng hạn, anh chàng Võ Quy, kèm
theo cái tên Larry. Và vô số những tên như thế Catherine, Julie, Elizabeth,
Brigitte, Linda. Nay Võ Quy đã gần 70 tuổi, trước đây là một sĩ quan không
quân, quân đội VNCH.
Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern
Califronia cách đây 6 năm cùng với vợ, Linda, còn có tên cúng cơm là Ngọc để về
ở đây.
Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh
diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox (thép không rỉ), phòng tắm lớn
có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn.
Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm:
"Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ,
còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều."
Thiệt là Việt Kiều.
Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả
bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có
những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án "thành phố
xanh" (Green city).
Cái điều oái ăm đến quái gở là
khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhớ đến Sài gòn, tìm cách đặt tên Little
Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Ðịnh, bánh cuốn Ðakao, Restaurant Hoài Hương, Phở
Hà Nội, Brodard restaurant, phở Nguyễn Huệ để nhớ về miền Nam thân yêu.
Nay ở Việt Nam người ta lại muốn đặt
tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali ”, “tiểu Fairfax ” để nhớ đến. Và cứ
như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc,
Mỹ Hóa của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.
Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi
ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những
người đồng bào của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ
chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ.
Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực
tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta,
đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ỉ cả lên.
Anh bực tức nói: Như thế không phải
lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp. Như thế là thiếu văn minh.
Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn
hoá Việt, không muốn trở thành một mẩu trong Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt
con đi học tiếng Việt. Về Việt Nam, mở mồm là anh chỉ xổ tiếng Mỹ.
Cái mâu thuẫn như thế rất là Việt
Nam. Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái
tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại
trước.
Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35
tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như
không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN. Nhưng anh cũng có một
vài nỗi khổ vặt khác.
Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc
gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh
cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền.
Nhất là các cô thiếu nữ trông khả
ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai. Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh
ai nấy sống chen lấn chụp giựt.
Nguyễn Anh hơi buồn về con người
Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết
người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại
không hiểu gì về người mình.
Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh
không hiểu được là người Việt Nam "Xem thể thao" chứ không chơi thể
thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài
truyền hình theo dõi một trận đá banh.
Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ
có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể
còn cá độ. Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc.
Lại một điều nữa, Nguyễn Anh
không hiểu được. Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon,
Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân choi nổi tiếng
là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.
Nhưng có người thấy như thế thì lấy
làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi
đâu chả được. Phí tiền nữa.
Ngưyễn Anh không đáp lại, vì anh
có cái lý của anh. Ðúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng
ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.
Còn về thanh niên, thiếu nữ thì
chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra
là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng
cho một câu.
Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ.
Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống
Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.
Những vị lãnh đạo trong nước thì
nghĩ rằng:
Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những
người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền
trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến
tranh lần nữa.
Gió chướng đổi chiều đến đâu có thể còn chưa biết rõ được.
Tôi tự hỏi bao giờ làn gió chướng đó cùng với con lốc đầu tư tư bản đánh bật chủ
nghĩa Cộng Sản ra biển?
Chỉ có một điều tôi biết chắc rằng, ngay cả những người
theo làn gió chướng đổi chiều, đã về VN. Họ cũng cảm thấy họ chẳng sung sướng
gì, đôi khi tỏ ra buồn phiền, nghi kỵ, thất vọng không muốn nói ra.
Ðó là trường hợp hợp ông Nguyễn Cao Kỳ. Ðó cũng là trường
hợp một người trong số 17 người vừa được vinh danh "Vinh Danh Việt Nam –
2006"?
Tôi có cảm tưởng họ đang chơi một canh bạc giả, biết
như thế mà vẫn chơi, chơi cho biết. Gió chướng đã đổi chiều? Nhưng đổi thế nào
thì còn chưa nói được.
Bảng chỉ đường đất nước vẫn còn có thể chỉ trật đường.
Xin dè dặt. Thận trọng và khôn ngoan để đừng thêm một lần nữa mắc mưu Cộng Sản
lừa phỉnh./.
Hạnh Lam
Khai Dân Trí | Hạnh Lam |
No comments:
Post a Comment