LTS: Đọc bài viết đầy "tự hào là người Mỹ gốc Việt" của
TS Nguyễn Đình Thắng, và bài viết đầy "tự hào là người Việt Nam" của
tác giả Trần Tiên Long, chúng tôi chạnh lòng nghĩ đến một giai đoạn lịch sử
không xa lắm của người Nhật trên xứ Mỹ.
Trong thế chiến thứ nhì, từ năm 1942 đến 1946, Hoa Kỳ đã giam giữ
hơn 110 ngàn người Mỹ gốc Nhật sống trong các tiểu bang dọc bờ biển Thái Bình
Dương như California, Oregon, Washington, Arizona,... Lệnh giam giữ người Nhật
được ban ra ngay sau khi cuộc tấn công của Nhật vào Trân Châu Cảng. Sáu mươi
hai phần trăm (62%) người Nhật bị giam là công dân Mỹ.
Lúc đầu, công chúng Mỹ đứng về phía đa sô dân Mỹ gốc Nhật, như tờ
Los Angeles Times mô tả đặc trưng cho họ là "những người Mỹ tốt, sinh ra
và được giáo dục như vậy." Tuy nhiên , sáu tuần sau khi Trân Châu cảng
Pearl Harbor bị tấn công, dư luận quay lưng lại với người Mỹ gốc Nhật, người Mỹ
lo lắng về khả năng người Nhật trở thành đạo quân thứ năm (hoạt động gián điệp).
DeWitt, người quản lý chương trình giam giữ người Nhật, nhiều lần
nói với báo chí rằng "A Jap is a Jap" (một người Nhật vẫn là người Nhật)
và điều trần trước Quốc hội:
"Tôi không muốn bất kỳ người nào của họ [người có gốc Nhật] ở
đây. Họ là một thành phần nguy hiểm. Không có cách nào để xác định lòng trung
thành của họ ... Không có gì khác biệt cho dù người đó là một công dân Mỹ, họ vẫn
là một người Nhật Bản. Quốc tịch Mỹ không thể xác định lòng trung thành ...
Nhưng chúng ta phải lo lắng về việc người Nhật trong mọi lúc cho đến khi họ bị
xóa sổ khỏi bản đồ."
Bạn có thể tham khảo thêm ở http://en.wikipedia.org/wiki/
Japanese_American_internment.
Ông Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng có lẽ không có học đoạn lịch sử này. Hoặc có, nhưng không còn nhớ, do tính tự đắc và ngạo mạn quá đáng của ông. Chắc gì cái bằng Công Dân Hoa Kỳ, và lòng tự hào là Mỹ gốc Việt như ông sẽ được người Mỹ tách ra khỏi những người tự nhận là người Việt như ông Trần Tiên Long nếu có một sự xung đột mâu thuẫn nào đó về chính trị giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Người Hoa Kỳ có nghi ngờ ông qua hình tướng, như chiều cao, màu mắt, màu da, màu tóc,... của ông hay không, trừ phi ông đắc lực làm Việt gian, đứng ra lập trại giam tất cả những người Mỹ gốc Việt nào khác ý với ông! Than ôi, điều đó cũng rất có thể xảy ra lắm./.
Xin Mãi
Mãi Là Người Việt-Nam
Trần
Tiên Long
Thường thì bất cứ
vấn đề nào cũng có hai mặt: mặt trái và
mặt phải; mặt nổi và mặt chìm; chiêu bài và
thực chất; hoặc điểm và diện.
Bài viết “Chúng Tôi Không
Phải Là Việt Kiều” của Tiến sĩ
Nguyễn Đình Thắng (NĐT) chỉ dựa trên
một mặt nổi của vấn đề nhưng
đã bỏ qua mặt chìm. Mặt nổi đó là một
khía cạnh pháp lý về quyền lợi của người
có quốc tịch, thường được tô vẽ
hoa hòe, nhưng chỉ là chiêu bài, không phải là thực
chất. Nó chỉ là diện, là bề ngoài, không phải là
điểm quan trọng để dựa vào đó mà phán
đoán. Tốt hơn, chúng ta cần phải nhìn vấn
đề từ cả hai mặt trước khi quyết
định cách hành xử sao cho hợp với lý lẽ.
Bài viết này có mục
đích trình bày một mặt khác, mặt thực của
vấn đề. Và vấn đề đặt ra ở
đây là việc khẳng định về thân phận,
về cái giống người của chúng ta, những
người đã vì hoàn cảnh phải xa lìa đất
tổ để tiếp tục mưu sinh cho cuộc
sống. Vậy chúng ta có còn là người Việt-Nam
nữa không sau khi đã gia nhập một quốc tịch
khác? Đối với tôi, như cái tựa của bài
viết đã khẳng định rồi, rằng tôi xin
mãi mãi được là người VN vì tôi phán đoán
dựa trên thực chất chứ không trên cái nhãn hiệu
bề ngoài.
Sau đây, tôi xin lần
lượt biện minh qua các tiểu mục sau:
Di hại của việc đồng hóa chế độ với quốc gia và dân tộc
Nếu tôi không còn là người Việt Nam
Kết luận
Là người Việt-Nam
từ khi mới chào đời, và vì hoàn cảnh chính
trị của đất nước, tôi đã vượt
biên ngay giữa tháng 5 năm 1975 và được tị
nạn tại Pháp. Khi rời VN vừa bước vào
tuổi 21, tôi không nghĩ rằng lần ra đi này là
đoạn tuyệt với mọi quá khứ. Ở Pháp
một năm, tôi qua Mỹ theo diện đoàn tụ gia
đình. Trong những năm cuối cùng của thập niên
70, khi đang còn mài đủng quần tại University Of
New Orleans, LA, anh chị em sinh viên VN chúng tôi thường
chỉ quấn quít bên nhau, ít chịu hội nhập ngay
với xã hội mới. Mỗi lần gặp gỡ, tụ
họp, chúng tôi thường ngóng cổ hỏi thăm tin
tức về VN. Ở vào thời điểm đó, bang
giao giữa Hoa Kỳ và VN chưa có nên tin tức chỉ
đến từ những người sang sau. Chẳng có
ai trong chúng tôi ý thức được rằng sẽ có
ngày chúng tôi vĩnh viễn trở thành công dân Mỹ. Khi ra
trường Kỹ sư Cơ khí vào năm 1982, tôi vẫn
không tìm ngay được việc làm thích hợp. Những
việc liên quan đến kỹ thuật cao thường
đòi hỏi phải có quốc tịch Hoa Kỳ. Ngày nay,
khi đã có quốc tịch và làm việc cho Bộ Quốc
Phòng vài chục năm nay rồi, tôi vẫn nghĩ rằng
tôi là người VN.
Thực vậy, nếu tôi là
người Mỹ gốc Việt, thì đó chỉ là trên
danh nghĩa, trong giấy tờ; vì thực chất dòng máu
VN vẫn luôn luôn luân lưu trong con người tôi. Làm sao
tôi có thể che giấu được thân phận da vàng
mũi tẹt đối với các đồng nghiệp
xung quanh tôi? Nhớ những lần đầu tiên gặp
họ, sau một vài câu xã giao với cách phát âm còn nặng
giọng VN, ai ai cũng đặt cho tôi cùng một câu
hỏi, “where are you from?”, ngụ ý rằng họ
không xem tôi là người Mỹ như họ. Tôi không
phải ngại ngùng, e dè, nhưng nói ngay với họ
rằng tôi là người VN, và dĩ nhiên ai ai cũng
hiểu tôi phải có quốc tịch Hoa Kỳ.
Mỗi ngày tôi đi làm 8
tiếng, bao gồm hội họp, bàn thảo, làm việc
nghiên cứu, viết các bài tường trình đúc kết
những kết quả của các cuộc điều tra,
hay viết emails, gọi điện thoại trao
đổi về các vấn đề kỹ thuật…
hoàn toàn xử sự như một người Mỹ. Lúc
đó tôi là người Mỹ gốc Việt. Ngược
lại, khi về nhà, tôi chỉ nói tiếng Việt,
đọc sách báo Việt, nghe nhạc Việt, ăn các món
ăn VN, giao tiếp với các người bạn VN.
Vậy tôi là người VN trong suốt 16 tiếng
đồng hồ còn lại, cộng thêm 24 tiếng
mỗi ngày cho cả hai ngày cuối tuần.
Nếu khi sinh ra đời tôi
không có quyền tự do chọn lựa hình hài của
người dân nước nào thì tại sao tôi phải
từ chối điều mà tôi đã không có quyền
lựa chọn? Có điều gì để phải xấu
hổ đến mức độ công khai khước
từ một định mệnh đã an bài? Tờ
giấy quốc tịch chỉ là sự chứng nhận
cho tôi được hưởng quyền lợi công dân
của một đất nước, nhưng bù lại,
tôi cũng phải có những bổn phận và nghĩa
vụ đối với đất nước đó. Vì
hoàn cảnh mưu sinh của cuộc sống, tôi đã
chọn Mỹ. Nhưng cái nhãn hiệu bề ngoài hay
thẻ quốc tịch trên giấy tờ không thể thay
đổi hình hài mẹ VN đã cưu mang tôi, bao gồm
cả phần thể xác lẫn tinh thần, những
thực chất của con người VN. Và cái thực
chất đó mới là điều quan trọng hơn cái
nhãn hiệu, giấy tờ.
Nhưng tại sao vẫn có
những người muốn chối bỏ cội
nguồn, chẳng hạn như Tiến sĩ NĐT đã
lên tiếng “Chúng Tôi Không Phải Là Việt
Kiều”, hoặc ông giám mục Công giáo nọ
lại cho rằng “Thật là nhục nhã khi cầm
tờ hộ chiếu VN”, mặc dù ông giám mục
vẫn hiện còn là công dân của nước VN? Có lẽ
họ muốn phản kháng để thiên hạ biết
rằng họ không phải là công dân của một chế
độ hiện tại? Nhưng lý lẽ đó không
vững, bởi vì chúng ta không thể đồng hóa một
chế độ với một quốc gia và dân tộc.
Chế độ hay chủ nghĩa chỉ là giai
đoạn, luôn luôn biến đổi, nay còn mai mất;
trong khi dân tộc và quốc gia thì mãi mãi trường
tồn. Tôi cũng vẫn luôn luôn là người VN cho dù
đất nước VN đang được cai trị
bởi chế độ VNCH hay XHCNVN. Và tôi cũng dư
biết rằng đất nước VN tôi là một
quốc gia rất nghèo, có lịch sử 1,000 năm nô
lệ giặc Tàu, 100 năm nô lệ giặc Tây, và còn
“20 năm nội chiến từng ngày”. Có phải
chỉ vì nghèo khó mà tôi thực lòng cam tâm chối bỏ thân
phận làm người VN?
Danh từ “Việt
kiều” được định nghĩa là
người Việt-Nam cư ngụ ở nước
ngoài, cho dù họ có đổi quốc tịch hay không.
Người Cộng sản hay người Quốc gia thì
trước tiên họ cũng vẫn là người VN.
Chẳng ai xem “Việt kiều” là
người VNCH hay người XHCNVN đang sống ở
nước ngoài cả. Quốc tịch cho chúng ta quyền
hạn pháp lý của một công dân, nhưng không thay
đổi hình hài, máu mũ, và cả cái nền văn hóa
đã hấp thụ bao năm qua từ khi mới chào
đời, những bản chất đích thực bên trong
của một nòi giống dân tộc, những thứ không
dễ gì có thể thay đổi một sớm một
chiều.
Chẳng hạn, ở Mỹ,
khi ra đường, chúng ta bắt gặp một
người có vóc dáng Tàu hay Ấn Độ, chúng ta vẫn
thường gọi họ là người Tàu hay Ấn
Độ, chẳng ai gọi họ là người Mỹ
gốc Tàu hay gốc Ấn Độ cả. Nếu có thì
cũng chỉ có trên giấy tờ, không phải trong
thực tế của cuộc sống hằng ngày. Và,
dĩ nhiên, họ cũng đối xử với
người VN chúng ta như vậy. Chúng ta thấy có
nhiều phố Tàu (China Town), nhưng tuyệt đối
chúng ta chưa thấy phố Mỹ gốc Tàu bao giờ
cả. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Nếu mai
này có phải di cư qua Pháp và vì hoàn cảnh cần
phải thay đổi quốc tịch thì tôi cũng là
người Pháp gốc Việt, không phải là
người Pháp gốc Mỹ, cho dù hiện tại tôi
đang là công dân Mỹ.
Còn đối với
người VN ở quốc nội, dù chúng ta là những
người Mỹ hay người Pháp gốc Việt thì
họ cũng cứ gọi chúng ta là Việt kiều,
một danh từ đã có từ rất lâu đời,
trước rất xa biến cố 30/4/1975, để
chỉ tất cả những người VN đang
sống ở ngoại quốc, bất kể tình trạng
pháp lý của họ như thế nào. Dù chúng ta đã có
quốc tịch mới hay chỉ là những thường
trú nhân, chưa có thẻ quốc tịch, ăn ở
nước ngoài hợp pháp hay không hợp pháp, thì họ
cũng vẫn gọi chúng ta là những Việt kiều,
chẳng chạy đi đâu được. Như
vậy, dựa vào lỹ lẽ nào để có thể
chối bỏ một sự thực đã có từ ngàn
đời như Tiến sĩ NĐT đang làm, rằng “Chúng
Tôi Không Phải Là Việt Kiều”?
Chúng ta hãnh diện mình là
người Mỹ gốc Việt, từ chối thân
phận làm người VN, nhưng đã ở Mỹ
gần 40 năm rồi mà vẫn còn rất nhiều
người trong chúng ta chưa nói được tiếng
Mỹ để hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ. Qua
vụ bão Katrina ở New Orleans, LA, tình trạng không nói
được tiếng Mỹ này đã được phàn
nàn nhiều bởi các cơ quan chức năng chính
quyền khi họ cố gắng giúp đỡ những
nạn nhân người Mỹ gốc Việt.
Tác giả Trần Bình, trong bài
“Gửi Các Bạn Hải Ngoại”
được ông tuyen do [tonguyenviet@yahoo.com] đưa vào
diễn đàn ngày22/3/2014, viết:
Có một sự việc
đáng buồn nhưng ít ai biết từ mấy chục
năm qua, đến gần đây mới lộ ra. Ở
New Orleans, US, nếu không có cơn bão Katrina vừa rồi,
thì đâu có ai biết là rất nhiều người
Việt định cư ở New Orleans không biết nói
tiếng Anh và không thể tiếp xúc với Cảnh Sát khi
có việc cần. (đây là những người qua đây
từ 1975 đã có cơ nghiệp vững vàng, chứ không
phải những người mới qua).
Ở những nơi tập trung đông người Việt như California, Georgia, Texas, và vùng Washington DC, mọi giao dịch đều dùng tiếng Việt, kết quả là trình độ ngoại ngữ của người Việt rất kém.” (Hết trích).
Ở những nơi tập trung đông người Việt như California, Georgia, Texas, và vùng Washington DC, mọi giao dịch đều dùng tiếng Việt, kết quả là trình độ ngoại ngữ của người Việt rất kém.” (Hết trích).
Như vậy, chúng ta vẫn
là người VN trong thực chất, không thể chối
cãi được, cho dù chúng ta có nhập tịch
để là công dân của một quốc gia khác trong
giấy tờ.
2. Di hại của việc đồng hóa chế độ với quốc gia và dân tộc
Sự đồng hóa một
chế độ với một quốc gia và dân tộc
một cách lầm lẫn như đã bàn ở trên sẽ
đưa đến những cách thức hành xử nguy
hại cho quyền lợi của quốc gia và dân tộc,
vô tình biến chúng ta thành những tội đồ của
dân tộc VN. Nhiều khi chúng ta nhân danh việc chống
Cộng, tưởng là chúng ta đang chống một
chế độ, nhưng thực ra là chúng ta đang
chống lại quyền lợi của quốc gia và dân
tộc VN chúng ta.
Khi toàn dân cả nước
đang cố gắng làm sao cho dân giầu, nước
mạnh, bằng cách hội nhập vào cộng đồng
quốc tế, và khi toàn thể các quốc gia trên thế
giới muốn bang giao, làm bạn, hợp tác, làm ăn
với VN, kể cả tòa “thánh” Vatican, thì người
VN ở hải ngoại cứ lo loay hoay chống họ.
Chúng ta chống Mỹ bang giao với VN, chống VN gia
nhập Liên Hiệp Quốc, chống VN được là
thành viên của Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp
Quốc, chống thế giới làm ăn với VN,
chống VN xuất cảng hàng hóa ra ngoại quốc,
chống du lịch về VN, chống cả việc làm
từ thiện, giúp đỡ dân nghèo trong các vụ thiên
tai, bão lụt ở VN… nhưng kết quả của
những thứ chống đó chỉ làm hại
đến quyền lợi của quốc gia và dân tộc,
làm chính đất nước và anh em bà con ruột thịt
của chúng ta muôn đời nghèo đói vì bị cô lập,
ở vào thế bế quan tỏa cảng như Bắc
Hàn, chứ không thể đoạt được quyền
lực đang trong tay của một chế độ.
Những kẻ đang làm nguy hại đến quyền
lợi của quốc gia và dân tộc đều là
những tội đồ hay kẻ thù của quốc gia
và dân tộc, cho dù họ núp dưới chiêu bài Quốc gia
hay Cộng sản.
Mà thực ra, chúng ta chống Cộng chỉ là trên danh nghĩa, chúng ta chống nhau mới là bản chất đích thực của vấn đề. Cứ mỗi khi muốn chống ai trong việc làm ăn hay tranh dành chức vụ thì việc đầu tiên chúng ta đội cho họ cái nón cối Cộng sản, rồi sau đó tha hồ thoải mái tự do tố Cộng mà chẳng cần phải chứng minh họ là Cộng sản. Bao nhiêu tội lỗi của Cộng sản từ trước tới nay được vô tư đổ lên đầu các đối thủ, nhưng chẳng bao giờ chúng ta tự hỏi rằng họ đã làm gì, ngoài sự khác biệt một ý kiến, một quan điểm, một nhận thức về cùng một vấn đề. Có thể khẳng định mà không sợ nói quá đáng rằng có hơn 95% những ý kiến được phát tán hằng ngày trong các diễn đàn công cộng của người Việt hải ngoại là để chửi bới và mạt sát giữa những người Việt Quốc gia với nhau. Bây giờ thì lại có bài của tác giả Trịnh Viết Bắc với nội dung tố ngược ở ngay tựa đề “Chính “Việt Kiều” tỵ nạn cộng sản đã giúp đỡ cộng sản!”
Cái nghị quyết 36 của
Cộng sản tự nhiên trở thành một lý do
để chúng ta biện minh cho việc chống nhau,
cứ làm như Cộng sản có thuộc tính toàn năng
của Thượng đế, luôn luôn núp sau những
đối thủ đang chống phá chúng ta. Ngay cả
những tội lỗi, bê bối, đã có từ ngàn
xưa, của các ông bà chuyên nghề buôn thần bán thánh
cũng được đổ lên đầu
người Cộng sản. (Nguồn: Nghề Đi Tu - Cộng Sản Không
Phải Là Thần Thánh: http://sachhiem.net/index.php? content=showrecipe&id=5915 ). Tại sao chúng ta không
thể can đảm mở rộng mắt ra để
nhìn thấy Lỗi Tại Chúng Ta Mọi Đàng? Vì chúng ta cứ lo chụp
mũ, đổ tội cho Cộng sản để
chạy quanh như vậy nên xung quanh chúng ta chỉ còn toàn
là Cộng sản. Nếu Cộng sản có thuộc tính toàn
năng thần thánh như chúng ta đang xưng tụng thì
chúng ta lấy gì để thắng họ?
3. Nếu tôi không còn là người Việt Nam
Có một hệ lụy nghiêm
trọng khác khi chúng ta từ chối mình là người VN,
đó là chúng ta cũng đương nhiên từ chối
thân phận người Việt Quốc gia của chúng ta,
nếu còn muốn gọi là người Việt Quốc
gia. Bởi vì “Chúng Tôi Không Là Việt Kiều”,
vậy còn lý do gì để tự nhận mình là người
VN tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc và quốc
gia VN? Và có mấy người VN tị nạn chính trị
từ năm 1975 tới mãi giờ này vẫn chưa vào quốc
tịch để còn được gọi là người
VN? Nhưng khổ
một điều, chỉ có chúng ta, những người
VN còn nặng lòng với quê hương và dân tộc,
mới thực sự thương yêu đất
nước và dân tộc VN.
Nếu chúng ta cứ tưởng
mình thực sự là những người Mỹ thì tại
sao chúng ta không bắt chước hành xử như người
Mỹ, họ đang xem dân tộc VN như những người
bạn, mặc dù trong quá khứ đã có một thời là
những kẻ thù của nhau?
Khi Ngoại trưởng John Kerry đến thăm VN vào tháng 12 năm 2013, ông đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tăng thêm viện trợ 32,5 triệu đô để giúp các quốc gia Đông Nam Á bảo vệ chủ quyền biển, và để bảo đảm quyền tự do hàng hải. Riêng Việt Nam sẽ nhận thêm 18 triệu, kể cả 5 tàu tuần tiểu cao tốc cho Hải Quan Việt Nam. Với sự giúp đỡ từ phía Hàng Hải Hoa Kỳ này, số tiền viện trợ sẽ lên đến hơn 156 triệu trong vòng hai năm cho vùng Đông Nam Á. (Nguồn: Kerry announces new US maritime security aid to Vietnam amid China tensions, pushes reforms)
Như vậy, nếu tôi là người Mỹ làm việc cho bộ Quốc Phòng thì đương nhiên tôi phải trung thành với chính sách ngoại giao của quốc gia đang cưu mang tôi và gia đình tôi. Và chính sách hiện nay của Hoa Kỳ là hợp tác song phương ở nhiều lãnh vực, bao gồm kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo… cho sự lợi ích của cả hai bên.
Tiến sĩ NĐT khẳng định rằng “Chúng tôi không là Việt kiều. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt,.” Rồi ông giải thích thêm: “Cái gốc Việt ấy cho phép chúng tôi lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam.” Nhưng thưa ông Tiến sĩ, bất cứ ai ở Mỹ, chẳng cần phải có cái gốc gác VN như ông đang đòi hỏi, cũng đều có quyền “lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam”. Chẳng có ai ở một đất nước có tự do ngôn luận như ở Mỹ có thể cấm đoán và bịt miệng ông Tiến sĩ. Vậy chúng ta không nên phàn nàn hay xử sự dựa trên một điều gì không bao giờ có thực. Một điều không thực thì chẳng có thể là lý do để ông dùng biện minh có tính thuyết phục điều ông vừa khẳng định.
4. Kết luận
Thế giới càng ngày càng bé nhỏ, nhất là ở thời điểm có thông tin điện tử và trao đổi toàn cầu. Nếu không thể loại trừ nhau thì chỉ còn có mỗi một cách duy nhất là sống chung hòa bình với nhau. Không phải chỉ có chiến tranh mới có thể làm thay đổi lịch sử. Lịch sử chứng minh cho chúng ta thấy rằng đã có biết bao cuộc chiến tranh rồi, nhưng sau mỗi một cuộc chiến, chúng ta lại tiếp tục chung sống với nhau. Ngày nay, chúng ta đang sống chung với những kẻ đã gây ít nhất 7 cuộc thánh chiến, những kẻ đã xưng thú 7 núi tội ác đối với đồng loại; chúng ta cũng đang làm bạn với những người Đức quốc một thời hủy diệt toàn dân Do thái; chúng ta cũng đang làm bạn với các quốc gia Cộng sản có một thời gia nhập Liên Bang Xô Viết gây biết bao tội ác cho nhân loại; và chúng ta cũng đang làm bạn với các quốc gia thực dân Pháp và Nhật Bản một thời đã xâm chiếm đất nước của chúng ta. Lấy oán trả oán, oan oan tương báo cứ chồng chất, chẳng bao giờ chấm dứt.
Đối với tôi, có
một cuộc chiến quan trọng và trường kỳ
kể từ khi có con người, đó là một cuộc
chiến giữa thiện và ác; giữa những
điều sai lầm, mê tín dị đoan và các chân lý;
giữa tinh thần cực đoan cuồng tín giáo
điều và lòng bao dung chấp nhận những quan
điểm đối nghịch; giữa độc tài và
tự do; giữa tham nhũng, bất công và công lý, v/v…
mà vấn đề chủ nghĩa hay chế độ
chỉ là một trong những biểu hiệu của
cuộc chiến. Đó là một cuộc chiến mà tôi
nghĩ bất cứ người trí thức nào cũng
không thể từ chối dự phần. Chẳng cần
phải khẳng định cương vị của
một người dân nước nào thì tôi cũng có thể
tham gia trận chiến trong khả năng và hoàn cảnh
giới hạn của cá nhân tôi.
Nhưng có một điều
tôi biết chắc chắn rằng chẳng bao giờ tôi
muốn là một “chiến sĩ” chỉ biết
chống Cộng bằng cách trùm mền hô xung phong ở
thời điểm mà chủ nghĩa Cộng sản
chỉ còn là một xác chết thuộc về lịch
sử. Một thái độ cực đoan tương
tự như kiểu “it’s my way or the highway”
không phải là thái độ thích hợp mà tôi cần
phải theo đuổi.
Năm xưa, tướng quân
Trần Bình Trọng khẳng định rằng, “thà
làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua nước
Bắc”. Quan niệm này chỉ trình bày
được cái mặt lý tưởng cực đoan
nhưng bỏ qua cái mặt thực tế và thực
dụng của vấn đề. Ngày nay, tôi thà làm vua
nước Bắc, bởi vì ở thời điểm
chính trị, kính tế hội nhập toàn cầu này,
với quyền thế của một ông vua, tôi có thể
giúp đỡ quốc gia và dân tộc VN tôi dễ dàng
hơn là từ vị thế của một thằng
quỷ, cho dù là thằng quỷ của nước Nam. Do
vậy, tôi sẽ sẳn sàng nhập một quốc
tịch mới để có cơ hội phục vụ
hiệu quả hơn, trong sự giới hạn của
khả năng và hoàn cảnh, cho dân tộc và quốc gia VN
nói riêng, và cho cộng đồng nhân loại nói chung.
Dù sao chăng nữa, hình hài do
mẹ VN cưu mang và dòng máu tiên rồng trong con
người tôi không thể thay đổi, nay còn mai
mất. Vậy tôi xin mãi mãi được là người
VN, cho dù không còn trên danh nghĩa giấy tờ. Là
người VN trong thực chất, tôi chẳng phải là
người của riêng chế độ nào, nhưng
chỉ là con dân của nước Việt, một quốc
gia của tổ tiên dân tộc tôi. Chế độ hay
chủ nghĩa thì chỉ là giai đoạn, còn dân tộc
và quốc gia thì mãi mãi trường tồn./.
Trần Tiên Long
Havelock, NC
March 23, 2014
___________________
Chúng Tôi Không Là Việt Kiều
Ts.
Nguyễn Đình Thắng
Nguồn: http://machsong.org/modules.Khai Dân Trí | Trần Tiên Long |
No comments:
Post a Comment