Vị Tổng Thống Dân Cử Cuối Cùng
          Của Việt Nam Cộng Hòa
     TRẦN VĂN HƯƠNG
  Cựu Giáo Sư Trường Trung Học Mỹ Tho
    Nguyễn Thanh Liêm
    Từ lúc bắt đầu đi học cho đến bây giờ,    tôi đã có rất nhiều may mắn  được học hỏi với biết bao nhiêu thầy cô đáng    thương đáng kính. Nhưng  ngoài những thầy cô đáng thương đáng kính ấy còn    có ba bậc thầy tôi  rất mực tôn sùng, nhưng tôi không hề được thọ giáo    bao giờ. Vị thứ  nhất là một nhà nho có học vị cao nhất Miền Nam, là vị    tiến sĩ Nho  học đầu tiên và duy nhất của Miền Nam, cụ Phan Thanh Giản,    một nhà  cai trị đầy lòng yêu nước thương dân với chủ trương "dân vi quý,    xã  tắc thứ chi, quân vi khinh". Vị thứ hai là một nhà văn hóa có cái học     uyên thâm, nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký, và vị thứ ba là cụ Trần     Văn Hương, cựu giáo sư Trường Trung Học Mỹ Tho, và cũng là vị Tổng  Thống    dân cử cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Cụ Phan Thanh Giản cả  đời lo cho    dân cho nước, địa vị có cao, nhưng cuộc đời hết sức giản  dị đạm bạc,    cuối cùng phải tuẩn tiết đền ơn sông núi sau khi đã tiết  kiệm được bao    nhiêu xương máu của người dân Nam Kỳ. Ông Đốc Ký thì đã  đi dạy từ hơn    nửa thế kỷ trước khi tôi chào đời, đã để lại cho Việt  Nam một công trình    văn hóa to lớn, đã khai đường mở lối cho nền văn  chương chữ quốc ngữ, và    đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc xây  dựng nền học thuật mới, tổng    hợp khoa học kỹ thuật Âu Tây với luân lý  đạo đức Á Đông vào hồi cuối thế    kỷ thứ XIX. Vị thứ ba là cụ Trần Văn  Hương, tuy không có một công trình    văn hóa lớn lao như hai vị trên,  nhưng đã để lại trong lòng người dân    Việt một hình ảnh không phai mờ  của một kẻ sĩ đầy khí tiết, một tấm    gương ngay thẳng trong sạch, và  là một chính trị gia lúc nào cũng tận    tụy, hy sinh cho dân chúng và  quốc gia Việt Nam trong thời đen tối của    lịch sử hiện đại.
    Về hai vị thầy thứ nhất và thứ nhì thì    những sách vở văn học và sử  học đều có nói đến, tuy chưa có tài liệu nào    dành cho họ một ngôi vị  xứng đáng với công trình to tát mà họ đã đóng    góp cho nền chính trị  và học thuật nước nhà. Nhưng dù sao thì phương    danh của họ cũng đã  được lựa chọn để đặt cho hai ngôi trường trung học    lớn và có tiếng ở  miền Nam Việt Nam: trường Petrus Trương Vĩnh Ký, ở    ngay tại thủ đô  Sài Gòn của Miền Nam tự do, và trường trung học Phan    Thanh Giản ngay  tại thủ đô của Miền Tây nước Việt. Nhưng về vị thầy thứ    ba là cụ Trần  Văn Hương thì tôi chưa thấy có một công trình biên khảo    nào đáng kể  để được xem như là một nỗ lực nhằm tôn vinh một người chí sĩ    nổi  tiếng của miền Nam Việt Nam cho xứng đáng với đức độ và sĩ khí của     Người. Do vậy mà trong thâm tâm tôi vẫn thầm nguyện ước phải làm một cái     gì để chính bản thân tôi và nhiều người Việt Nam khác, nhứt là thế  hệ    trẻ, có thể biết đến, kính phục và thương mến một con người đạo  đức và    rất yêu thương dân chúng và quê hương xứ sở.
    Ước nguyện nầy đã thúc đẩy tôi cùng một    số bạn hữu tổ chức những  buổi lễ tưởng niệm cố Tổng Thống Trần Văn Hương,    từ hồi tháng 3 năm  1996 tại San Jose với sự tham dự đông đủ của những    người ngưỡng mộ  ông. Chúng tôi hy vọng buổi lễ tưởng niệm nầy sẽ là bước    khởi đầu cho  những công trình quan trọng hơn và ý nghĩa hơn ở nhiều nơi.
    Rồi hôm nay, sau một phần tư thế kỷ ngày    từ trần của cụ Hương, ở  tại đây, nơi được xem là thủ đô của người tỵ nạn,    chúng tôi muốn khởi  đầu lễ tưởng niệm vị Tổng Thống hợp hiến cuối cùng    của Việt Nam Cộng  Hoà để nhắc nhở các thế hệ sau về tấm gương của một    nhà ái quốc đạo  đức, một chính trị gia trong sạch, liêm chính, hết lòng    vì dân vì  nước, đã phải sống những ngày cuối cùng của cuộc đời trong    cảnhï  nghèo túng, đạm bạc, cũng như cụ Phan Thanh Giản trước kia. Cụ    Hương  cũng đã tiết kiệm được nhiều xương máu của người dân Nam, đã ở lại     với người dân, sống khổ sở tũi nhục trước sự hống hách của những can     binh cộng sản không tình người, vô đạo đức, vô liêm sĩ, chỉ biết dùng     sức mạnh võ lực để kiềm hảm, áp bức người dân Nam hiền lành. Chúng tôi     mong nhân dịp này tạo cơ hội để hằng năm những người quốc gia chân  chính    hãy cùng tưởng niệm vị giáo sư lỗi lạc có một không hai của  trường    Nguyễn Đình Chiểu, nhà chí sĩ khí tiết cao cả của miền Nam  Việt Nam, vị    Tổng Thống hợp hiến cuối cùng được nhiều người mến phục  của Việt Nam    Cộng Hoà. Bên cạnh cụ Hương còn có những vị tướng lãnh  đã nêu cao nghĩa    khí của người chiến sĩ bất khuất, thà chết chứ không  chịu nhục trước cái    chiến thắng không chính đáng, không danh dự của  bọn người nô lệ mù quáng    cho chủ nghĩa cộng sản chật hẹp, lỗi thời.  Các vị tướng lãnh Nguyễn Khoa    Nam, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Hai, Phạm  Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ    Ngọc Cẩn, và những sĩ quan, binh sĩ  khác đã tuẩn tiết ngày Cộng Sản xăm    chiếm Miền Nam cũng đều đáng được  tôn thờ, tưởng niệm bên cạnh vị Tổng    Thống bất khuất của Việt Nam  Cộng Hoà.
   Ông Trần Văn Hương sanh năm 1902 tại Vĩnh    Long trong một gia đình  nông dân nghèo khó. Cha làm ruộng, mẹ đi bán    cháo ở ngoài chợ. Nhà  nghèo, thuở nhỏ ông phải đi làm để kiếm tiền đi    học. Nhờ học giỏi nên  ông được học bổng của chính phủ. Sau khi xong    Trung Học Pháp, ông  tiếp tục học Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội. Năm 1926, sau    khi tốt nghiệp,  ông được bổ về dạy tại Trường Trung Học Collège Le Myre    de Vilers, Mỹ  Tho. Ít lâu sau, ông được bổ nhiệm làm Thanh Tra Học Chánh     (inspecteur provincial) tỉnh Tây Ninh. Chính tại đây, nhà giáo Trần Văn     Hương đã vượt qua cương vị của một nhà mô phạm để bắt đầu dấn thân  vào    con đường chính trị. Thực ra, khi quốc gia hữu sự thì mọi người,  dù kẻ    thất phu cũng còn có trách nhiệm, huống chi là người có tâm  huyết, chí    khí như giáo sư Trần Văn Hương. Cho nên, năm 1945, sau khi  Thế Chiến thứ    hai chấm dứt, ông mạnh dạn bỏ nghề dạy học để tham gia  phong trào toàn    quốc kháng chiến chống Pháp, đảm nhiệm chức vụ Chủ  Tịch Ủy Ban Hành    Kháng tỉnh Tây Ninh. Khi Pháp tái chiếm tỉnh nầy,  ông đưa bộ đội rút về    Đồng Tháp Mười để tiếp tục kháng chiến.
    Nhưng vào khoảng 1946-47, khi biết phong    trào nầy đã bị Cộng Sản  thao túng, ông Hương giải tán bộ đội, trở về    thành để làm "cu-li  viết", như ông thường nói, hầu sống đạm bạc qua ngày.    Tư cách, uy tín  cũng như tài năng của ông được nhiều người biết đến Cho    nên khi Ngô  Đình Diệm tìm một người có đủ tài năng và đức độ làm đô    trưởng Sài  Gòn thì Trần Văn Hương đã được đề nghị trước hết. Năm 1955,    ông nhận  lời mời của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra làm Đô Trưởng Saigon lần    thứ  nhất. Đây là lần đầu tiên người dân miền Nam Việt Nam được thấy một     chính trị gia cỡi xe đạp đi nhậm chức đô trưởng. Nhưng mấy năm sau, khi     thấy chánh quyền Đệ Nhất Cộng Hòa bắt đầu có nhiều sai lầm trong  chánh    sách, ông Hương cùng 17 nhân sĩ khác trong nhóm Tự Do Tiến Bộ  (thường    gọi là nhóm Caravelle) ký tên vào bản thỉnh nguyện và tổ chức  họp báo    tại khách sạn Caravelle để yêu cầu Tổng Thống Ngô Đình  Diệm thay đổi    đuờng lối cai trị để cứu nguy dân tộc. Kết quả là ông  Hương và 17 nhân    sĩ bị vào tù, và là thời gian ông có dịp làm bài thơ  bất hủ: Ngồi buồn    gãi (dái) ngứa tăng tăng . . .
    Năm 1964, ông được mời làm Đô Trưởng lần    thứ hai. Không bao lâu  sau, ông lại được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu mời    thành lập chánh phủ  và đây là lần đầu tiên ông làm Thủ Tướng Chính Phủ.    Khi tướng Nguyễn  Khánh làm chỉnh lý, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu bị truất    phế, Thủ Tướng  Trần Văn Hương bị bắt và bị quản thúc một thời gian ở    Vũng Tàu.
    Năm 1968, sau Tết Mậu Thân, trong cảnh    hỗn loạn hiểm nguy, ông  Hương đã can đảm nhận lời mời của Tổng Thống    Nguyễn Văn Thiệu ra làm  Thủ Tướng lần thứ hai. Sau một năm chấp chánh,    tình hình chánh trị,  quân sự ở miền Nam Việt Nam đã có phần được ổn định    lại. Năm 1971,  ông đắc cử Phó Tổng Thống trong liên danh với Nguyễn Văn    Thiệu. Ở ghế  ngồi chơi xơi nước, ông chỉ làm chủ tịch một số hội đồng    quốc gia  trong đó có Hội Đồng Văn Hoá Giáo Dục. Tưởng như vậy cũng đã    yên thân  lúc tuổi già, nào ngờ, vào ngày 20 tháng tư năm 1975, trong    cảnh dầu  sôi lửa bỏng, lúc vận mệnh quốc gia đi đến hồi thập tử nhất    sinh,  ông Trần Văn Hương lại mạnh dạn đứng ra nhận lấy trách nhiệm trước     quốc dân đồng bào khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ông Trần Văn     Hương lên làm tổng thống chỉ vỏn vẹn có bảy ngày, vừa đủ để gặp gỡ  Đại    Tướng Dương Văn Minh, và điều trần trước lưỡng viện Quốc Hội về  tình    trạng khẩn trương của đất nước, để tìm một giải pháp chính trị  trong    tuyệt vọng của miền Nam Việt Nam. Trước áp lực mạnh mẽ của Mỹ,  với sự    đồng ý của lưỡng viện Quốc Hội, Tổng Thống Trần Văn Hương đã  trao quyền    lãnh đạo lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh trong một buổi  lễ tại Dinh Độc    Lập chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, khoảng 36 tiếng  đồng hồ trước khi    quân Cộng Sản tiến vào Saigon. Ông Trần Văn Hương  là vị tổng thống dân    cử cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Trước khi  Saigon mất, đại sứ Hoa Kỳ    có đến mời ông ra đi để có thể bảo đảm cho  ông một cuộc sống yên ấm cho    đến trăm tuổi già. Ông nhứt đinh ở lại  quê hương, chia xẻ nỗi đau và    cảnh khốn cùng của dân quân cán chánh  Việt Nam Cộng Hòa.
    Năm 1977, chánh quyền Cộng Sản đem giấy    tờ trao trả quyền công dân  lại cho ông. Ông đã khẳng khái khước từ. Ông    dõng dạc tuyên bố với  chánh quyền Cộng Sản rằng ông sẽ là người sau cùng    nhận lãnh sự trao  trả đó khi nào tất cả các dân quân cán chánh đang bị    giam cầm đều  được trao trả quyền công dân.
    Ông đã sống hết sức thanh bần trong những    ngày còn lại của ông. Tuy  rất nghèo nàn, thiếu thốn, ông vẫn muốn sống,    để sống hơn Hồ Chí  Minh một tuổi thôi.
   Ông  đã được thỏa mãn với ước nguyện của    ông. Ông mất hồi 4 giờ chiều  ngày 27 tháng 1 năm 1982, tức ngày mùng ba    Tết năm Nhâm Tuất, hưởng  thọ 80 tuổi.
    Ông Trần Văn Hương là một nhà giáo và    cũng là một nhà nho với tất  cả phong độ của một kẻ sĩ thấm nhuần tư    tưởng Khổng Mạnh mặc dù ông  theo Tây học từ thuở nhỏ. Theo quan niệm nhà    nho, tiến vi quan, thối  vi sư, tùy theo thời cơ mà ra làm quan giúp vua    trị nước hay là đi  dạy học, truyền bá đạo lý thánh hiền. Tu, Tề, Trị,    Bình, là con đuờng  mà kẻ sĩ phải theo trong tiến trình hoàn thành trách    nhiệm mà đất  trời giao phó. Cuộc đời đi dạy học và chấp chánh của ông    cho thấy ông  đã đi đúng con đường mà ngày xưa Khổng Tử đã đi.
    Lớn lên trong hoàn cảnh loạn ly, Khổng Tử    muốn đem đạo đức luân lý  cải thiện con người và xã hội. Hoài bão đem đạo    thánh hiền để cứu  đời, đem vương đạo để cai trị, làm cho quốc gia có    trật tự và hưng  thịnh, cho thiên hạ được thái bình, là hoài bão luôn    được Khổng Tử ấp  ủ trong lòng. Do đó, sau một thời gian dạy học, Khổng    Tử lại vượt ra  cuộc đời của nhà mô phạm để chấp chánh.
    Ngày kia, khi đến nước Sái, thấy có hai    người cày ruộng. Khổng Tử  sai Tử Lộ đến hỏi thăm đường. Người thứ nhứt    tên là Tràng Thư nói với  Tử Lộ: "Ông ấy (tức Khổng Tử) chu du đã lâu để    dạy đạo cho đời, hẳn  phải biết đường rồi còn hỏi chi nữa." Người thứ hai    là Kiệt Nịch lại  bảo: "Đời loạn đã lâu, làm sao mà trị được. Anh đi theo    Khổng Khâu đã  lâu làm gì để bị người đời xa lánh. Sao anh không theo ta    để chính  mình xa lánh cuộc đời có phải hơn không!"
    Nghe vậy , Khổng Tử bèn than: "Người mà    không sống chung với loài  người thì sống với ai? Nếu thiên hạ đã đạt    được đạo rồi thì Khổng  Khâu nầy đâu cần phải dấn thân vào đời đổi loạn    ra trị làm gì nữa!"
    Thương thay cho những người muốn dấn thân    giúp đời như Khổng Tử!  Tội nghiệp thay cho thân phận nhà giáo muốn đem    đạo đức vào địa hạt  chính trị để cho vương đạo được phổ cập trong thế    giới loài người!
    Ông Trần Văn Hương khi nhận lời chấp    chánh chắc cũng nghĩ như Khổng  Tử là đem tất cả thành tâm thiện chí của    mình để mong cải thiện  đường lối chánh trị, đem lại trật tự cho xã hội    đang hồi loạn ly, đem  yên ổn thanh bình cho dân chúng. Vốn là nhà giáo,    thấm nhuần tư  tưởng Khổng Nho, ông muốn đem đạo đức vào địa hạt chánh    trị để cho  vương đạo được sáng tỏ.
   Ông hành sử như vậy vì ông thấy mình có    trách nhiệm phải làm chớ  không phải vì bổng lộc, danh vọng hay quyền lợi    cho cá nhân hay gia  đình ông. Thanh bạch, liêm khiết là những đức tánh    không ai phủ nhận  được nơi ông Trần Văn Hương. Dù giữ chức vụ cao cấp    trong chánh  quyền, cuộc sống của ông lúc nào cũng đạm bạc, khiêm tốn,    ngay cả  quần áo ông cũng không có một bộ cho đáng giá. Nói về tư cách    của  người lãnh đạo, nhà nho bảo là khi quốc gia hữu sự, nhân dân khốn    khổ  mà mình làm bậc cha mẹ dân lại được giàu sang sung túc là một điều     sỉ nhục. Ông Trần Văn Hương đã theo đúng tinh thần nho giáo ấy khi ông     lãnh đạo quốc gia dân tộc.
    Nói đến ông Trần Văn Hương là phải nói    đến con người cương trực,  khẳng khái của ông. Những kẻ hay dùng tiền bạc    hay một sức mạnh nào  khác tạo áp lực để mưu cầu lợi riêng cho cá nhân    hay đoàn thể chắc  chắn không đạt được kết quả gì trước cái ngay thẳng    gan lì của "Ông  già gân". Dù bị chống đối, bị áp lực đủ trò, ông vẫn một    mực đặt tôn  giáo và chánh trị ra ngoài học đường, thượng tôn luật pháp    để vãn hồi  an ninh trật tự cho xã hội. Tinh thần bất khuất của kẻ sĩ đã    khiến  ông phải mạnh dạn đứng lên phản kháng khi gặp phải diều bất bình,    bất  lợi cho quốc gia dân tộc, dù có phải nguy hại đến an ninh cá nhân.
    Hai lần được mời làm đô trưởng, hai lần    được mời làm thủ tướng, một  lần được mời đứng chung liên danh ứng cử    Thượng Viện, và một lần  được mời đứng chung liên danh ứng cử tổng thống,    khả năng và nhân  cách của ông Trần Văn Hương đã được người đương thời    biết đến và kính  phục. Tuy ông đã không đem lại được thắng lợi và vinh    quang cho chế  độ Việt Nam Cộng Hòa, ông cũng đã để lại cho người dân    miền Nam Việt  Nam một tấm gương yêu nước, thương dân, trong sạch, liêm    khiết và  tiết tháo mà người đương thời ít ai sánh bằng. Với tư cách đạo    đức  trong sáng của một nhà giáo, với khí tiết hùng dũng, bất khuất của     một chính trị gia thật sự yêu nước thương dân, ông Trần Văn Hương và     những chiến sĩ Quốc Gia chết vì chế độ tự do của Việt Nam Cộng Hoà thật     vô cùng xứng đáng để ngày nay chúng ta tưởng niệm vậy.
   Nguyễn Thanh Liêm 
Người Quốc Gia là những người đặt Tổ  Quốc lên bản vị tối cao, tối cao có nghĩa là trên tất cả mọi vật, kể cả tôn  giáo, đảng phái, và cả chính bản thân mình.


No comments:
Post a Comment