Đào Văn Bình
Nói về những “kỷ niệm” trong các trại
tù cải tạo do cộng sản dựng lên sau ngày 30-4-75 thì tại hải ngọai này có
cả ngàn truyện ngắn, hồi ức, thơ tù đã
được viết ra. Các hồi ký viết
về các trại tù - trong một giai đọan khá dài,
đã được coi như là một thể lọai
văn chương gây tác động mạnh mẽ cho
người đọc. Hình như suốt một thập
niên từ những năm 1980 tới 1990 là thời kỳ
“vàng son” của những hồi ký tù. Người ta đua
nhau đọc những cuốn hồi ký do các cựu tù
nhân chính trị hoặc vượt
biển hoặc định cư theo diện ODP hoặc HO
viết ra mà tôi còn nhớ được một số tác
phẩm như sau:
Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh
Trại Cải Tạo của Phạm Quang Giai
Đáy Địa Ngục của Tạ Tỵ
Những Năm Tháng Cải Tạo Tại Miền Bắc
của Trần
Hùynh Châu
Cùm Đỏ của Phạm Quốc Bảo
Những Sự Thực
Không Thể Chối Bỏ của
Đào Văn Bình
Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp
Trại Ái Tử và Bình
Điền của
Dương Viết Điền
Cuộc Nổi Dậy
ở Trại A20
của Phạm Văn Thành
Vụ Án
Vính Sơn của
Trần Kim Định
Bác Sĩ Lê Mai (Tiểu thuyết lấy bối
cảnh trại tù cải tạo của Thanh Thương
Hòang)
Trại Đầm
Đùn (không nhớ
tên tác giả)
Tôi Phải Sống của LM Nguyễn Hữu Lễ
Thế rồi
bẵng đi một thập niên, thể lọai hồi ký
tù dần dần lui vào hậu trường sân khấu
để nhường bước cho những hồi ký
chính trị xuất hiện, đặc biệt là những
cuốn sách mổ xẻ về cuộc chiến tranh Việt
Nam. Thế nhưng ngày hôm nay, do tình
hình chính trị đổi thay, do sự ra đời của
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo ở quốc nội,
đã đưa vấn đề tù nhân
chính trị trở thành một trong những đề tài
nóng bỏng. Và thật là bất ngờ, một
cuốn hồi ký tù mà tác giả là người còn đang bị
kìm kẹp ở trong nước được xuất bản
ở Hải Ngọai. Đó là tập Hồi Ký 26 Năm Lưu
Đày của Thượng Tọa Thích Thiện Minh
ra mắt ngày 20-1-2007 tại một hội trường
sang trọng của Ambassy Suites Hotel thuộc Thành Phố San
Jose nhân Lễ Ra Mắt Ban Điều Hành Hải Ngọai
của Hội Cựu TNCT& Tôn Giáo Việt Nam.
Là một cựu
tù nhân chính trị dĩ nhiên là tôi phải yêu thích các hồi
ký tù. Nhưng tôi không làm cộng việc phê
bình mà chỉ giới thịệu tới quý vị những
gì mà một cựu tù nhân chính trị - cũng là một tu
sĩ viết ra khi đã phải chịu đựng 26
năm lưu đày khổ nhục trong các nhà tù cộng sản.
Với một quá trình khổ đau dài như
thế, những điều tác giả viết ra chắc
chắn phải có một chút gì lưu lại cho đời
sau như là những sử liệu qúy giá về một giai
đọan đen tối nhất của dân tộc.
Hồi Ký 26 Năm Lưu Đày
dày 278 trang, bìa bốn màu với tấm hình của tác giả
chụp lúc còn trẻ, mặt mũi sáng sủa, phúc hậu,
trang nghiêm trong bộ y vàng của Đức Phật, tay lần tràng hạt, gồm cả thảy
13 Chương.
Chương I: Tác giả kể lại thời thơ ấu,
sinh năm 1955 tại Bặc Liêu mà phụ thân là một tín
hữu Cao Đài. “ Cha tôi có tấm lòng nhân hậu, tính
tình rộng rãi hay giúp người. Mẹ tôi là một
người đàn bà hiền thục, mẫu mực vất
vả quanh năm vì chồnng con.” (Tr. 8) Có
lúc gia đình phải tha hương cầu thực tại
Vĩnh Bình (Trà Vinh). Chính tại nơi đây cậu
bé Hùynh Văn Ba (thế danh của tác giả) đã có duyên
với cửa Thiền và được cha mẹ cho phép
xuất gia. Năm 17 tuổi (1972) tác giả thọ giới
Sa Di và năm 22 tuổi (1977) thọ Cụ Túc Giới do Hòa
Thượng Thích Trí Thủ - Nguyên Viện Trưởng Viện
Hóa Đạo làm đàn chủ và Đại Lão Hòa Thượng
Thích Hành Trụ kiêm Phó Tăng Thống làm chứng minh đạo
sư. Sau đó ông “tu sĩ sữa ” (*)
này được cử về trụ trì tại một
ngôi chùa tại Vĩnh Bình và đã được đồng
bào Phật tử tại đây gọi thân mật bằng
các tên “ông đạo, huynh, cậu
và thậm chí bằng con, bằng cháu nữa.” (tr. 12).
Chương II: Biến Cố 30 Tháng 4 xảy đến như một
cơn đại hồng thủy mà tác giả gọi
đó là “Ách Vận Đại Biến” hay “Hắc Ám Nhật
Tử (Ngày Đen Tối). Ngòai phần văn xuôi, tác giả
đã mô tả lại những đau thương vô tiền
khóang hậu này bằng 76 câu thơ, tôi xin trích ra một số
đọan như sau:
Chuông giáo đường đã từ từ
hoang vắng
Chùa, nhà thờ vườn cảnh trống
người thưa
Người thay trâu kéo cộ để cày bừa
Bao cơ khổ sáng trưa chiều tối.
Ăn
cháo độn cùng củ khoai củ chuối
Biết bao người chết đói thảm
thương
Kẻ ăn xin, người hành khất vạn
nẻo đường
Phải trú ẩn nhà thương, bến cảng
Và cả những
em bé, nữ sinh, sân trường đại học cũng
không thóat khỏi cảnh đổi đời ghê rợn
này:
Sân đại học ngày xưa thơ mộng
lắm
Đến bây giờ cảnh buồn vắng
sầu vơi
Bao thư sinh đi viễn
xứ xa vời
Gío thu thổi, lá rơi buồn
rũ rượi
Công viên vắng như nhớ nhung chờ
đợi
Phương lẻ sầu không phơi phới
trổ hoa
Cô nữ sinh áo dài trằng thướt tha
Nay cắt ngắn áo bà ba lo cuộc sống!
Riêng
tác giả phải đối đầu ngay với các “anh
hùng giải phóng” điển hình là Hai Thổ- Xã Đội
Trưởng Du Kích, hống hách bước vào chùa, chỉ
vào lá cờ ngũ sắc của Phật Giáo nói “Giờ này mà nhà chùa còn treo lá cờ
của Thực Dân Pháp nữa à? Bọn Đế Quốc Mỹ
và Ngụy Quân, Ngụy Quyền Sài Gòn đã cuốn xéo bỏ
chạy rồi, tại sao Pháp còn ở đây? Thật là hết
sức phản động, có lẽ cần phải cho
đi học tập dài hạn mới được!”
(tr. 25) Và ông “Quan Kách Mệnh”
(*) này chỉ vào tượng Đức Phật Đản
Sinh, cười khinh khỉnh nói “ Thằng Phật nhỏ xíu này nó không có công làm cách mạng
để đánh đuổi Đế Quốc, tại sao
phải thờ nó? Nó ngồi một chỗ,
để chờ người ta đem quà lại dâng cúng.
Nó là thành phần giai cấp bóc lột mà!” (tr. 25)
Do
áp lực của chính quyền địa phương và ủy
ban tôn giáo vận buộc phải hiến ngôi chùa cho để
làm trụ sở của xã đội, tác giả chạy
lên Sài Gòn để trình với Tổ Đình Ấn Quang và trực
tiếp xin gặp LS Nguyễn Hữu Thọ - Chủ Tịch
MT/GPMN và đem về một bứt thư…trình lên Tư Hóa
- Trưởng Ban Quân Báo Huyện Đội Vĩnh Lợi.
Đọc xong, Tư Hóa xé nát bức thư nói rằng “Chừng nào thằng Thọ, thằng
Phát (Hùynh Tấn Phát) – Chủ Tịch Chính Phủ Cách Mạng
Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam xuống
đây thì tao mới không lấy ngôi chùa này mà thôi !” ( Tr.31)
Trong
thời gian này, sự đàn áp tôn giáo thật khốc liệt
và xảy ra ngay cho hàng ngũ lãnh đạo
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở
Sài Gòn. Đại Đức Thích Huệ Hiền trụ trì
Chùa Thiền Viện Dược Sư Cần Thơ cùng chư tăng ni tự thiêu tập thể vào
ngày 2-11-75 để phản đối bạo quyền. Hòa
Thượng Thích Thiện Minh – Cố Vấn Viện Hóa
Đạo bị tra tấn đến chết trong trại
tù, ngòai ra “ khắp các tỉnh, nhiều ngôi chùa, trường học, tự viện
và tài sản giáo hội bị quản lý, xung công..”(tr.
33)
Chương III: Nói về giai đọan tác giả
vừa cứu khổ độ sanh vừa hỗ trợ, rồi
tham gia Mặt Trận Dân Quân Phục Quốc sau đổi
thành Mặt Trận Nghĩa Quân Cứu Quốc – Việt Nam Dân Quốc
với tư các cố vấn. Vào ngày 28-3-1979 tác giả bị bắt rồi
bị giam vào Trại Giam Vĩnh Lợi ,
Tỉnh Minh Hải (gồm hai tỉnh Bặc Liêu và Cà Mau). Và
đây đúng là một địa ngục trần gian với
“những người mang tội
chính trị chưa bị kết án nhưng bị cùm kẹp
liên tục ngày đêm hơn bốn năm rồi..” (tr. 53) Và
đây là cảnh tù đi tắm “ Chúng tôi tắm ở một ao nước rất cạn
và dơ. Khi tắm giặt, nước bên
trên chảy xuống ao, cứ múc lên tắm tiếp. Thậm chí khi khát nước cũng cứ múc lên
mà uống. Cái ao này nữ tù cũng cũng thường
xuyên tắm giặt, giặt đủ mọi thứ trên
đời kể cả tấm tã lót của các cháu bé.
Nước ao càng ngày càng bị cạn và đục ngàu,
nhưng mọi người tù khát nước cứ tự
nhiên múc lên mà uống, uống một cách ngon lành, dường
như chẳng có suy nghĩ chuyện gì đã xảy ra.”
(tr. 55) Còn các tù nhân được gọi lên “làm việc” với chấp pháp,
khi trở về buồng giam thì “thân thể, tay chân bầm tím, mặt mày xưng vù,
đêm về không sao ngủ được.” (tr. 56). Nếu quả đây là lời của
một vị chân tu viết ra thì phải nói, tác giả là
người “nghĩa khí can vân” mang giòng máu anh hùng mã thượng
của Miền Nam, không bao giờ chịu khuất phục,
chịu nhục trước cai tù và chấp pháp. Dù không nói
ra nhưng người đọc có thể hiểu tác giả
rất giỏi võ nghệ cho nên tác giả đã né tránh một
cách nhẹ nhàng ngón đòn Thôi Sơn Thủ (Thiếu Lâm Bắc
Phái) của tên công an muốn đánh tác giả
để dằn mặt,
rồi dõng dạc nói với tên công an “Xin lỗi
anh vì tôi đang ở tù chứ cỡ hai người
như anh không thể là đối thủ của tôi. Nếu
muốn công bằng mà tỉ thí…” (tr. 57) Trong thời gian
này tác giả âm mưu giải thóat tù nhưng vì bị phản
bội cho nên kế họach vỡ lở và bị chuyển
tới Trại Tù Ty Công An Minh Hải.
Chương IV: Nói về Trại Giam Ty Công An
Minh Hải. Tại đây có một lọai công an mà dân chúng
gọi là “công an 30 Tháng 4”. Bọn này có “ ngón nghề độc đáo để
điều tra, nào là đánh túi bụi, đánh kiểu trên
đao dưới búa, còng tay đứng, còng chéo tay sau
lưng, còng ngồi đan chéo hai tay. Họ dùng nhục hình
để điều tra và bản thân tôi cũng không thóat
khỏi…” (Tr. 63) và “phòng giam
chỉ rộng khỏang 3 mét vuông mà nhốt có khi đến
20 người..” (Tr. 63).
Cũng tại trại này, cộng sản cho tù giả vào
để làm khổ nhục kế để theo sát tù và
khai thác điều tra đó là tên Hồ Công Sơn – cựu
hạ sĩ quan binh chủng Biệt Động Quân QL/VNCH
bị móc nối trước 1975 và có người chú là Hồ
Nghi- Bí Thư Tỉnh Ủy Quảng Nam- Đà Nẵng. Trong
chương này có một đọan “ đối khẩu nảy lửa” (*) giữa tác
giả và tên Phạm Minh Chánh – Trưởng Ban Chấp Pháp
có biệt danh Ba Lát Gừng rất lý thú như sau “ Này chú Thiện Minh ! Tôi hỏi
chú, cách mạng từ trước đến giờ có đào
mồ cuốc mả cha chú không? Cách mạng có hãm hiếp mẹ,
chị gái, em gái của chú không? Mà chú tham gia
vào tổ chức phản cách mạng để chống lại
cách mạng vậy chú?”
Và đây là câu trả lời của tác giả “ Này Ông Ba, tôi từ nhỏ đến
giờ chỉ tu hành không có tham gia chính quyền Miền Nam,
nhưng đứng khách quan tôi muốn hỏi ông rằng:
Chánh quyền Sài Gòn có đào mồ cuốc mả cha ông
không? Chánh quyền Sài Gòn có hãm hiếp chị gái, em gái của
ông không? Tôi biết chắc là không nhưng giả
sử cho rằng mọi việc là có đi nữa thì ông mới
đứng lên tham gia cái gọi là “cách mệnh”. Nếu
mọi việc là không thì chắc ông không tham gia cách mệnh
chứ gì ?” (Tr. 68 &69).
Khi tác giả vừa nói xong, Ba Lát Gừng tay run run…nộ
khí xung thiên quát to “ Mầy,
đồ bán nước, đồ lũ phản động,
đồ ôm chân Đế Quốc Mỹ, làm tay sai cho Sen
Đầm Quốc Tế….” (tr. 69)
Chương V: Nói về trại tù Cà Mau, nhưng tác giả đã
làm người đọc phải rơi lệ khi mô tả
về tình cảnh khốn quẫn của gia đình như
người cha vừa qua đời, mẹ thì “ gầy mòn, tiều tụy” (*) còn các
em “ Em thứ bảy phải
nghỉ học đi bán bánh mì dạo nuôi gia đình. Em thứ
sáu phải làm nghề xe đạp thồ.
Em thứ năm vào tù vì liên hệ tới tác
giả và người em gái thứ tư cũng phải bỏ
học ngồi bán khoai, cóc, mía, ổi trước cửa nhà.” (Tr. 77).
Trong giai đọan này người dân quá
đói khổ cho nên liều chết vượt biển ra
đi. Cho nên bên cạnh tù chính trị còn
có tù vượt biên, tù cải tạo công thương nghiệp
cho nên nhà tù tỉnh không còn chỗ chứa. Tỉnh
Minh Hải cho dựng thêm rất nhiều nhà tù, có những
địa điểm mãi tận rừng sâu và
..rất nhiều án tử hình đã được
ban ra kể cả phụ nữ có thai cũng bị đem
ra hành quyết! (tr. 83).
Tại
trại tù này tác giả phải “quần
thảo” với hai tên chấp pháp là Trần Văn
Ơn và Lê Quang Dũng. Riêng tên Ơn đã ghép tội tử
hình cho gần 20 người. Nhưng có một tên chấp
pháp rất độc đáo đó là Nguyễn Ngọc
Cơ tự Sáu Búa – đương kim Viện Trưởng Viện Kiểm
Sát Nhân Dân. Sở dĩ Nguyễn Ngọc Cơ có hỗn
danh Sáu Búa chỉ vì công trạng của y như sau “ Thời kỳ còn họat động
trong rừng ông này phụ trách thi hành án tử hình. Một
hôm nọ, tòa án xử tử hình một
bà lão trên 70 tuổi. Cụ bà bị khép vào tội “làm điềm”
tức là chỉ điểm cho Quân Đội VNCH…đáng
lý ra ông ta thi hành án xử tử bằng
mã tấu. Nhưng đây là phiên tòa nhân dân lưu động
đặc biệt, nên xử xong là thi hành án
ngay. Hôm đó ông không đem theo mã tấu
bên mình, nên đành tạm mượn một chiếc búa của
dân làng. Ông phải cật lực và ra đòn
đúng sáu nhát búa bà cụ mới tắt thở. Có
người cho rằng bà cụ bị hàm oan cho nên khi chết
đôi mắt cứ mở trao láo, mà không chịu nhắm
nghiền lại…Ở Viện Kiểm Sát, tội nhân chỉ
nghe danh thôi thì đã khiếp đảm, rởn tóc gáy rồi
!” (tr. 85). Với những tên lấy khẩu
cung ghê gớm như thế thì bản án
tử hình chắc chắn đã dành sẵn cho tác giả.
Trong phiên tòa xử tại Bặc Liêu vào năm 1981 do Ung Ngọc
Uyển (em ruột Ung Văn Khiêm- cựu Bộ Trưởng
Ngọai Giao của chỉnh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa) ngồi ghế chánh án, tác giả bị tuyên án chung thân. Nhưng chỉ ít tháng sau, tác giả
lại bị lôi ra tòa một lần nữa - gọi là xử
phúc thẩm hòan tòan kín với những ông chánh án Miền Bắc
mặc vét-tông oai vệ nhưng răng nhuộm đen, khít
rịt, không còn thấy kẽ hở. “Tôi không giỏi về Ma Y Thần
Tưởng nhưng nhìn thóang qua tôi biết đây là thứ
thiệt rồi!” (tr. 94) Phiên tòa y án chung
thân và tác giả bị áp tải đi Trại Tù Cây Gừa
giữa hai hàng nước mắt của “người mẹ với mái đầu bạc trắng
và đứa em gầy ốm, lêu khêu...” Đó là hai nhân
chứng duy nhất của phiên tòa điển hình cho lọai pháp
đình của lòai muông thú. Trại Tù Cây Gừa là một
vùng thiên la địa võng là nơi tác giả có gặp gỡ
một số tù nhân, thuộc lực lượng phục
quốc của các ông Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Sở
dĩ tổ chức này bị phá vỡ là vì cộng sản
cài tình báo vượt biên qua các trại tỵ nạn Thái
Lan để xâm nhập. Trong thời gian này tác giả hợp
tác với hai người bạn đồng tù để
vượt ngục nhưng bất thành và bị cùm hơn
một năm trời trước khi bị áp tải
đi Xuân Phước. Còn người bạn cùng vượt
ngụcvới tác giả là Nguyễn Văn Tấn – Cựu
trung úy đặc công VC ra tòa lãnh án tử hình.
Chương VI: Trong đợt di chuyển bất thần tới
Trại Tù Xuân Phước mệnh danh là Thung Lũng Tử
Thần, gồm 21 người trong đó có chị Thái Thị
Kim Vân – nguyên huấn luyện viên Trường Nữ Quân
Nhân QL/VNCH, tham gia Mặt Trận Dân Tộc Tự Quyết
bi án tù chung thân, được anh em đồng tù mệnh
danh là “ Nữ anh hùng, một đấng nam tử
trượng phu, một nữ tướng hào kiệt. Chị đã bị công an đánh gẫy cả hàm răng chỉ vì
dám hô Đảo Đảo Cộng Sản ngay trước
trại.” (tr.114). Đòan áp tải và tù nhân có ghé ngang Sài
Gòn vào lúc nửa khuya, nghỉ tạm tại Khám Chí Hòa và tác
giả đã được nhìn lại Sài Gòn…một Sài Gòn
đã chết bởi một lũ người không phải
người tràn vào từ Miền Bắc đang làm ô
uế cả một thành phố hoa mộng yêu kiều
trước đây.
Chương VII: Đây Xuân Phước, đây Thung Lũng Tử
Thần! Một trại tù trừng giới “nằm dưới thung lũng,
chung quanh là rừng núi âm u với dãy Trường Sơn bao
la, nơi sơn cùng thủy tận, tưởng chừng
như là chỗ cuối đất, cùng trời nên ít thấy
bóng người…” (tr. 122) Trại tù này có bí số A20 gồm
ba phân trại, mỗi phân trại chứa khỏang 1000 tù
nhân, trước giam giữ sĩ quan thuộc chế độ
cũ, sau giam giữ tù nhân bị kết tội xâm phạm
an ninh quốc gia. Do chế độ lao tù khắc nghiệt,
do sơn lam chướng khí, tù nhân ở đây “dễ bị nhiều chứng bệnh
bất thường như sốt rét kinh niên, vàng da, bại
liệt, sạn thận, mù lòa, lao phổi hay tâm thần
điên lọan..” (tr.
123). Tại trại tù này, công an xử dụng tù hình sự
vốn là những cán bộ, công an, bộ đội phạm
pháp để cai trị tù nhân.. Có những lần Thượng Tọa Thích Huệ
Đăng cùng LM Nguyễn Huy Chương ngồi rửa từng
hạt cơm vì trộn muối mặn quá mà đếm chỉ
được vài mươi hạt. Sau
LM Nguyễn Huy Chương chết tại trại kỷ
luật K2. Sống thì như thế, nhưng chết
cũng chưa yên. “ Giai đọan
đầu tù nhân chết không có quan tài, chỉ bó sơ một
chiếc chiếu không được lành cho lắm. Về sau mới có quan tài nhưng không đủ
đinh để đóng nắp đậy. Khi
đưa xác đi chôn, quan tài được đặt
trên một chiếc xe gọi là “xe cải
tiến” dùng tay đẩy đi. Khốn khó trong khi đẩy,
đinh bị mục, ván thùng xe rớt xuống
đất, chiếc quan tài cũng rớt theo, thi hài lộ
ra ngòai nằm sõng sòai trên đất.” (tr.133). Trong thời
gian này tác giả đã gan lì cộng tác với một số
người như BS Nguyễn Kim Long để phá ngục,
giải cứu cho khỏang 1000 tù nhân nhưng kế hoạch
bị bại lộ và bị tra tấn chết đi, sống
lại, rồi bị đưa ra tòa thiết lập ngay tại
trại tù… lãnh bản án chung thân lần nữa đúng vào
năm 1987. Trong thời gian bị kiên giam, tác giả có dịp
ở chung với một số chức sắc tôn giáo
như: Ô. Phan Đức Trọng con nuôi Trung Tướng
Cao Đài Trần Quang Vinh, Ô. Trần Văn Nhành (PGHH), LM
Nguyễn Văn Vàng (Dòng Chúa Cứu Thế), LM Nguyễn
Quang Minh (Nhà Thờ Vinh Sơn), LM Nguyễn Luân (Phan Rang) và
LM Nguyễn Tấn Chức. LM Nguyễn Quang Minh bị
đánh hộc máu ứa ra từ miệng và hậu môn rồi
chết sau đó vài ngày chỉ vì mang vào trại vài chiếc
bánh Thánh. Tác gỉa cũng kể lại kỷ niệm
xướng họa thơ với LM Vàng và LM Nguyễn Luân trong
đó có một bài thơ tứ tuyệt như sau:
Vô thần diệt sạch khó gì đâu
Đòan kết liên tôn cứu họa sầu
Đập rắn, đập mình không thể
chết
Mà ta phải đập cả luôn đầu ! (tr. 146)
Riêng LM Luân bị
kiên giam quá lâu, bọn cai tù dụ dỗ
bằng cách chỉ cần linh mục viết một câu sau
đây là chúng thả ra:
Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập,
Tự Do, Hạnh Phúc
Thế nhưng
đã bao lần, linh mục chỉ viết:
Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam
Không Độc
Lập, Không Tự Do, Không Hạnh Phúc
Sau
đó LM Luân bị cùm cho đến chết. Trước khi chết, linh mục
để lại một bài thơ sau đây:
Trước kia không biết
Thầy Minh
Đến đây không hẹn mà mình gặp
nhau
Chúa Trời, Đức Phật trên cao
Còn ta trong ngục kết giao nghĩa tình
Chương VIII: Trại Tù Xuân Lộc Z30A nằm gần chân
Núi Chứa Chan là trại tù mà chính tôi đã có lần ở
đó, được thả ra năm 1984 và tác giả
được chuyển về đây cùng với 250 người
vào năm 1987. Tại đây tác giả có dịp gặp gỡ
các Tướng, Tá Miền Nam bị tù trên 10 năm cùng một
số tu sĩ nổi danh thuộc các tôn giáo như sau:
Hòa Thượng
Thích Đức Nhuận- Chánh Thư Ký Vịên Tăng Thống
Thượng Tọa
Thích Trí Siêu (án tử hình chưa đem bắn)
Thượng Tọa
Tuệ Sĩ (án tử hình chưa đem
ra bắn).
Thượng Tọa
Thích Tâm Lạc
Thượng Tọa
Thích Nguyên Giác
Thượng Tọa
Thích Minh Thông
Thượng Tọa
Thích Tâm Căn
LM Trần
Đình Thủ- Cha Bề Trên Dòng Đồng Công
LM Lê Quang Quế-
Tiến Sĩ Thần Học
LM Tiến (Dòng
Tên) Tiến Sĩ Thần Học Roma
LM Nguyễn Tấn
Chức
LM Tuyên
LM kiên nhạc
sĩ Huyền Linh
Cụ Nguyễn
Trác (Cao Đài)
Cụ Ba Đấu
(PGHH)
Cụ Bảy
Khánh (PGHH)
Ô. Tư Nhành
(PGHH)
Tu Sĩ Đòan
Văn Huynh
Rồi
trong một dịp phái đòan trung ương của VC phối
hợp với Viện Sử Học tới trại để
thuyết giảng về đề tài “Truyền Thống
Dân Tộc Việt Nam” và cho phép tù được phát
biểu tự do. Hai lần tác giả bị cướp
micro và sau đó bị chuyển sang Phân Trại B với tội
lợi dụng học tập để tuyên truyền sách
động chống chế độ. Và chính
tại nơi đây, tác giả có dịp gặp gỡ BS
Nguyễn Đan Quế và gọi đùa BS Quế là John F.
Kennedy vì BS Quế được giải thưởng nhân
quyền mang tên Cố TT. Kennedy. Vì sức
khỏe tác giả quá yếu sau những lần tuyệt thực,
BS Quế đã nhét đường vào lỗ gió thông hơi
cho tác giả. Những lần Bà Tâm Vấn – vợ BS
Quế vào thăm có gửi cho một số đồ chay
chế biến trông giống như đồ mặn (Bà Tâm
Vấn ăn chay trường) làm tác giả tưởng
đó là đồ mặn, trả lại khiến tí nữa
mang họa với cai tù. Sau đó thì BS Quế được
phóng thích nhưng “tình cảm và
tinh thần bất khuất với lập trường
kiên định của BS Quế luôn hằn mãi trong trái tim tôi.” (tr. 172)
Chương IX: Tác gỉa mô tả về cuộc tiếp xúc với
phái đòan nhân quyền LHQ vào ngày 24-10-1998 do Ô. Abdel Rattah Amor cầm đầu
với hai người tù Phan Ngọc Ấn tức TT. Thích Không Tánh và Huỳnh Văn Ba tức TT.
Thích Thiện Minh. Mặc dù đã được ban giám thị
trại tù “xuống nước năn nỉ”, dụ dỗ
cho định cự tại Pháp v.v.. hai vị đã dũng cảm đề nghị
với Ô. Abdel Rattah Amor bốn điểm như sau:
1.
Thả
tất cả tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm, tù
nhân tôn giáo đang bị giam giữ.
2.
Đòi
trả lại tài sản của các tôn giáo và phục hồi
quyền tự do tôn giáo một cách hòan tòan trong đó có phục
hồi quyền sinh họat pháp lý của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất.
3.
Xóa bỏ
Đìêu 4 Hiến Pháp, thực hiện một chế độ
đa đảng, đa nguyên, bình đẳng giữa các
đảng phái.
4.
Tổng
tuyển cử tự do với sự giám sát của LHQ,
đôi bên đồng bộ chủ trương tình
thương nhân đạo và hóa giải hận thù.
Khoảng
ba tháng sau, TT. Thích Không Tánh được phóng thích, nhưng vẫn
tiếp tục gửi tiền và vật chất để
nuôi tác giả trong tù. Sau buổi gặp
gỡ này, cuộc sống trong tù của tác giả dễ
thở hơn một chút. Và thế là sau sáu năm biệt
giam, tác giả được quay trở lại với tù
tập thể và lao động khổ
sai. Chính vì tình hình chính trị thế giới đổi
thay, do tinh thần đòan kết, một ủy ban đấu
tranh cho quyền
lợi của tù nhân chính trị và tôn giáo đã ra đời
bao gồm những nhân vật như sau:
TT. Thích Thiện Minh (Đại diện
Phật Giáo)
Ô. Nguyễn Viết
Huân (Dòng Đồng Công, đại diện Thiên Chúa Giáo)
GS Nguyễn
Văn Bảo (Đại diện Cao Đài)
Cụ Nguyễn
Văn Đấu (Đại diện PGHH)
Ô. Phạm Trần
Anh (Cựu Sinh Viên QGHC, đại diện Hội Bảo Vệ
Tù Nhân Chính Tri Việt Nam)
Trong
chương này, tác giả cũng ghi lại một số
câu chuyện đau thương, trớ trêu nghiệt ngã mà
tác giả thu lượm được như: Vợ Thiếu
Tá Đặng Bình Minh ra thăm chồng tại Trại Tù
Đồng Mua ở Miền Bằc. Sau buổi thăm nuôi
người vợ ngủ nhờ tại nhà thăm để
chờ mai xuôi Nam. Còn Thiếu Tá Minh trở về
trại mở tiệc liên hoan mừng gặp mặt vợ.
Nhưng vì sức khỏe quá suy yếu,
đêm đó anh đột ngột qua đời. Chị
Minh chờ cho nhà tù đưa quan tài chôn cất xong, chị
tự cầm dao cắt mái tóc dài đen huyền óng ả của
chị để lại trên mộ chồng cùng với một
bài thơ xé ruột:
Nắng hè thiêu đốt Đồng Mua
Đặng Bình Minh chết giữa mùa
thương đau
Thương anh em cắt mái đầu
Quấn trên mộ đá thay màu
khăn tang.
Và chuyện của
một người tù, vợ đến thăm, dẫn
theo người chồng mới, ăn ở với nhau có
ba đứa con, giới thiệu xong, chị ta nói rằng
“ Nhờ người chồng sau giúp
đỡ mới có tiền đến thăm nuôi anh trong
nhiều năm qua và nuôi con ăn học tới ngày khôn lớn!”
(Tr. 208)
Chương X: Tác giả chia tập thể đấu tranh chống
cộng sản trong nước thành bốn thành phần
như sau:
1.
Đấu
tranh vì tinh thần quốc gia, dân tộc
2.
Đấu
tranh vì hận thù
3.
Đấu
tranh vì quyền lợi
4.
Đấu
tranh vì xu hướng phong trào.
Chương XI: Tác giả ghi ơn suốt đời một số
ân nhân mà tác giả gọi là “ân công” như: BS Nguyễn
Đan Quế, LM Trần Đình Thủ, Thầy
Chương, Thầy Nguyễn Viết Huân, Thầy Nguyễn
Văn Hịêp (nay đã là Linh Mục), Hòa Thượng
Thích Đức Nhuận và Ô. Phạm Trần Anh (nguời
anh em kết nghĩa với tác giả). Cũng
trong chương này tác giả đề cao một số
nhân vật như Hòa Thượng Thích Huệ Đăng, TT.
Thích Không Tánh, TT. Thích Tuệ Sĩ, GS Nguyễn Văn Bảo.
Nhà văn Dõan Quốc Sĩ đã được tác giả
mô tả như sau “ Bác là nhà
văn hóa, một bậc mô phạm, đầy đủ
tư cách, một trí thức uyên thâm, tính tình từ tốn,
lịch sự, nhã nhặn, ôn tồn và phúc hậu. Bác là một
Phật tử trí thức thuần hòa, đạo hạnh.”
(tr. 231)
Chương XII: Là chương kết luận và tác giả
đã gửi gấm tâm sự của mình qua một vài nhận
định như sau:
1.
Việc
thả tự do cho tác giả cũng như cho bao nhiêu tù
nhân chính trị và tôn giáo khác không phải phát xuất từ
lòng nhân đạo của nhà cầm quyền cộng sản
mà vì họ bắt buộc phải thả do áp của thế
giới.
2.
Trong
thời đại “ma vương quỷ dữ” lộng
hành này, tác giả rất hãnh diện khi thấy Giáo Hội
Phật Giáo VNTN được lãnh đạo bởi Đại
Lão Hòa Thượng Tăng Thống Thích Huyền Quang và HT.
Viện Trưởng Thích Quảng Độ. Tác giả
đã dẫn Thông Điệp của Đệ Nhị
Tăng Thống Thích Giác Nhiên nói cách đây 25 năm để
minh định lập trường đấu tranh hiện
tại của Giáo Hội cũng như của chính tác giả
“ Đối với Giáo Hội
PG/VNTN, giáo hội chúng ta là hậu thân thừa kế của
các tổ chức giáo hội tiền nhiệm đã có từ
ngàn xưa. Pháp lý của Giáo Hội là lịch sử, địa
vị của Giáo Hội là trong lòng người, đường
lối của Giáo Hội là phục vụ dân tộc và
chúng sanh. Do đó, dù ở đâu hay trong hòan cảnh nào, Phật
Giáo Việt Nam
muôn đời vẫn là Phật Giáo Việt Nam.
Phật Giáo Việt Nam muôn đời vẫn là của dân tộc
Vịêt Nam.” (tr.250)
3.
Còn về
chuyện Đạo và chuyện
Đời, tác giả hòan
tòan tán đồng quan điểm của Hòa Thượng
Viện Trưởng Thích Quảng Độ khi đề
cập đến thái độ chính trị của
một công dân “Trên lãnh vực
tu hành, sự tham gia vào đời sống chính trị không
có nghĩa là ra tranh chức, tranh quyền, ứng cử dân
biểu, hoặc lập đảng này, đảng nọ”
mà là “ Ý thức được
trách nhiệm của mình đối với Tổ Quốc,
cho nên mọi người dân có quyền suy nghĩ chính trị,
nói chính trị và hành động chính trị. Mỗi người
dân khi biết xử dụng quyền công dân, cân nhắc lá
phiều của mình để chọn người xứng
đáng đại diện cho mình hay bầu người cầm
vận mệnh quốc gia thì dù muốn dù không cũng
đã tham dự vào đời sống chính trị rồi.”
(tr. 251)
4.
Còn về
vấn đề đòan kết tôn giáo, tác giả ghi nhớ
tới lời trăn trối cuối cùng của LM Luân
để nhắn nhủ tới các tôn giáo trong và ngòai
nước như sau “ Dầu các tôn giáo
không thể trở thành keo sơn gắn bó đi nữa thì
chúng ta nhất quyết không bao giờ bị sa vào âm mưu cạm bẫy chia rẽ
của loài quỷ dữ ma vương.” (tr. 255)
Chương
Phụ Lục: Bao gồm
một số tấm hình tác giả tới vấn an Hòa Thượng Tăng Thống Thích Huyền
Quang và Hòa Thượng
Viện Trưởng
Thích Quảng Độ cùng một vài sinh họat cứu trợ
bão lụt Miền Trung mới đây của tác giả. Rồi
tác phẩm kết thúc bằng 170 câu thơ làm theo thể
Song Thất Lục Bát nhan đề Ngày Quốc Nạn
xin tạm trích bốn câu:
Ngày ghi chép càng buồn trang sử
Ngày tang sầu chứng cứ còn đây
Ngày này sử khó mờ phai
Ngày vừa quốc nạn, vừa ngày quốc
tang (tr. 269)
Lời Kết:
Đọc xong tập
hồi ký, lòng tôi vừa phẫn uất, vừa buồn bã,
vừa xót xa. Qua 256 trang giấy, bằng thơ và lời
văn chân tình, mộc mạc, bình dị, chất phác, hiền
hậu của Miền Nam, của người dân xứ Bặc Liêu ruộng
thẳng cánh cò bay, cá tôm đầy đồng, đời
sống nơi đây chân
tình, cởi mở…tác giả đã vẽ nên một địa
ngục trần gian, một cơn ác mộng không thể tìm thấy ở một
nơi nào trên thế
giới. Ở một nơi nào đó trên thế giới
người ta có thể
giết nhau trong chiến tranh. Thế nhưng tại nơi đây, trong hòa bình, nguời ta
đã dùng những thủ đọan tàn độc nhất,
xử dụng những con người ngu dốt và hung ác
nhất, những âm mưu hung hiểm nhất, những trò
chơi tra tấn tinh vi nhất để giết hại hằng
triệu người …chỉ cho một mục đích duy
nhất là thỏa mãn tham vọng quyền lực cuồng
điên. Chính cái thiên đường ảo vọng,
chính cái chủ nghĩa cộng sản quái ác này là thủ phạm
của mọi tang thương, đổ vỡ, chết
chóc cho dân tộc Việt trong hơn nửa thế kỷ
qua. Thế nhưng trong nỗi nhục hình của bản
thân, sự đổ vỡ của gia đình, nỗi
đau thương của đồng lọai, trong suốt
256 trang giấy chúng ta không thấy tác giả khơi dậy
căm thù. Tác giả đã dùng những danh từ lễ
độ như “anh” hoặc “ông” hoặc “bà” hoặc dùng “cấp
bậc” để gọi những con quỷ dữ nói ở
trên. Lúc nào tác giả cũng giữ gìn phong độ của
một nhà tu hành, không bao giờ bộc lộ vẻ oán hờn
mà chỉ dùng “Nhẫn nhục
Ba La Mật”,”Trí Huệ Ba La
Mật”, “Thiền Định
Ba La Mật” để đối đầu với lòai
quỷ, để thóat qua những khổ hình ngặt nghèo
nhất. Dù hiện nay đang đấu tranh cho Dân Chủ,
Tự Do, cho Tự Do Tôn Giáo, tác giả không chủ
trương trả thù, hoặc quét sạch những con
người đã gây tạo những tội ác tày trời
với dân tộc mà bằng tâm nguỵện chí thành “ Cuối cùng tôi nguyện cầu mười
phương chư Phật khai thị Phật tánh cố hữu
của những tư tưởng bảo thủ trong Đảng
CSVN, sớm giải thóat khỏi phiền trược, dứt
bỏ ác nghiệp cơ cầu, hồi tâm chuyển ý, quay
về nẻo thiện để đưa Dân Tộc , Tổ
Quốc Việt Nam ngày càng thăng hoa phát triển.” (tr. 256).
Cùng với những
hồi ký tù nói ở trên, Hồi Ký Lưu Đày 26 Năm
của TT. Thích Thiện Minh sẽ góp phần như một
sử liệu quý giá cho đời sau nghiên cứu về
đất nước Việt Nam bất hạnh./.
Đào Văn Bình
(3-3-2007)
Khai Dân Trí | Đào Văn Bình |
No comments:
Post a Comment