ĐẠI BI KỊCH VIỆT NAM
NGUYỄN ĐÌNH CỐNG
“Đất nước mình ngộ quá phải không anh.
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn”.
(Trần Thị Lam)
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn”.
(Trần Thị Lam)
Vâng,
ngộ quá. Đúng là một đất nước không chịu phát triển, hoặc đúng hơn là
không thể phát triển được vì mắc kẹt vào các nghịch lý, các mâu thuẫn
nội tại chưa có cách gì gỡ ra được, đang loay hoay trong đại bi kịch.
1. Chế độ mang danh XHCN mà thực chất không phải XHCN
Chế
độ XHCN chỉ mới manh nha ở Liên Xô và Đông Âu một thời gian đã vội tan
rã. Theo tưởng tượng của Mác thì XHCN và sau đó CSCN chủ yếu là thể chế
kinh tế “làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu”, không có bóc lột, không có áp
bức. Nền kinh tế đó phải dựa trên công hữu tư liệu sản xuất. Vấn đề
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyên chính vô sản chỉ là biện pháp để thực
hiện nền kinh tế đó. Trong chế độ XHCN công nhân và nông dân làm chủ
nhà máy, ruộng đồng, mọi người sống tự do, hạnh phúc, giáo dục và y tế
miễn phí v.v… Nếu hiểu CNXH là như thế thì ở Việt Nam, ngoài việc chuyên
chính do Đảng CS thao túng, không có gì đáng kể là XHCN. Không cần dẫn
chứng, không phải chứng minh, cứ nhìn vào cuộc sống thực tế là thấy hết.
Phải chăng ở Việt Nam người ta chỉ đưa ra nhãn mác XHCN để tuyên
truyền, còn thực chất là chế độ gì chưa biết chứ chắc chắn không phải là
CNXH.
2. Nước cộng hòa nhưng hành xử theo phong kiến
Chế độ
phong kiến ở Việt Nam có nhiều thời kỳ thịnh trị, có vua sáng tôi hiền,
dân được sống ấm no hạnh phúc, nhưng cũng nhiều lúc thối nát, gặp phải
vua đểu và hèn, quan tham và ngu. Những lúc như thế dân phải chịu trăm
đường khổ nhục. Bản chất của phong kiến là quyền bính tập trung vào vua
quan, người dân chỉ là “thảo dân” chẳng có quyền gì, phải lo làm để nuôi
bọn thống trị. Tội nặng nhất là khi quân (nói hoặc làm khác ý vua),
nghĩa là không được tự do tư tưởng, không có tự do ngôn luận. Vua đứng
trên luật pháp, cho sống được sống, bắt chết phải chết, nghĩa là không
cần tôn trọng nhân quyền. ĐCS đã làm cách mạng đánh đổ phong kiến, nêu
danh là nước Cộng hòa XHCN, xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì
dân, không ngờ lại tái lập phong kiến dưới hình thức khác, không có một
ông vua rõ ràng mà vua tập thể, vua ở trung ương, vua tại các địa
phương. Không phải tái lập được nền phong kiến thịnh trị mà là phong
kiến thối nát. Theo mô tả của Milovan Djilas thì CS đã lập nên một “Giai
cấp mới “để thống trị xã hội còn tàn bạo, thâm hiểm hơn bọn phong kiến.
Đúng như bài thơ của Trung tướng Trần Độ:
Những mong xóa ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Tưởng ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay cái ác cứ luân hồi.
Ta phó thân ta với đất trời
Tưởng ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay cái ác cứ luân hồi.
Cái ác mà Trần Độ nói đến là cái ác do bọn thống trị gây ra, bắt dân phải chịu.
3. Là tư bản man rợ nhưng được ngụy trang bằng định hướng XHCN
Chế
độ kinh tế tư bản đã bắt đầu bằng những thủ đoạn man rợ, hoang dã như
làm giàu trên sự bần cùng hóa công nông, hủy hoại tài nguyên và môi
trường. Đó là thời kỳ vào thế kỷ 18, được Mác khảo sát để viết nên Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản và Tư bản luận, đồng thời tưởng tượng ra học
thuyết CNCS. Tiếp theo chế độ tư bản có các thời kỳ phát triển và đến
bây giờ đã có những nước được ví là thiên đường nơi hạ giới, như các
nước Bắc Âu. ĐCS Việt Nam một thời gian dài đã rất nhầm lẫn khi đồng
nhất tư bản với đế quốc xâm lược và quyết tâm làm tên lính xung kích đào
mồ chôn chúng nó. Từ năm 1986 Việt Nam cởi trói nền kinh tế, để cho tư
nhân phát triển, gọi là đổi mới, nhưng thực ra chỉ là sửa sai để đi theo
con đường kinh tế thị trường của tư bản, mà còn đèo thêm định hướng
XHCN. Nhiều người thắc mắc ý nghĩa của khái niệm định hướng XHCN, nó có
nội hàm và ngoại diên như thế nào. Theo tôi, ý muốn của người đưa ra
định hướng XHCN là phải đặt cả nền kinh tế thị trường ấy nằm gọn dưới sự
lãnh đạo của ĐCS. Thế thì dưới sự lãnh đạo ấy nền kinh tế Việt Nam phát
triển như thế nào. Rõ ràng là nó đang theo sát những thủ đoạn man rợ,
hoang dã thời kỳ đầu của kinh tế tư bản, mà còn tệ hại hơn nhiều. Đó là
sự cấu kết của bọn người có quyền với bọn tài phiệt trong và ngoài nước
nhằm đục khoét, chiếm đoạt tài sản quốc gia, cướp ruộng đất và bóc lột
nhân dân, vay nợ nước ngoài để đút túi một phần và để lại cho dân phải
trả. Không những cấu kết với bọn tài phiệt mà còn bảo vệ chúng, tôn thờ
chúng trong việc phá hoại đất nước (trong nền kinh tế thị trường thực sự
hầu như rất hiếm có sự cấu kết này). Thế rồi lãnh đạo chính phủ đi cầu
xin hết nước này đến nước khác để họ công nhận cho có nền kinh tế thị
trường, nghĩa là đã theo được tư bản. Lúc cầu xin như thế thì cố tình
cắt cái đuôi định hướng.
Tôi cho rằng tội ác lớn nhất nằm ở bên trong, phần nào bị che giấu, mang sắc thái vô hình. Đó là sự phá nát truyền thống đạo lý và văn hóa của dân tộc, là để cho việc gian dối trở thành phương châm xử thế từ quan đến dân, là sự hủy hoại thành phần tinh hoa của dân tộc để phải chấp nhận những kẻ vừa thiếu trí tuệ vừa kém đạo đức giữ những cương vị lãnh đạo và quản lý đất nước. Công nhận rằng sự phá nát, sự hủy hoại này không phải là ý đồ tự giác của CS, họ không cố tình làm những việc đó, nhưng nó là kết quả tất yếu của dấu tranh giai cấp, của vô sản chuyên chính, của công hữu hóa tư liệu sản xuất, của nền độc tài đảng trị. Những kết quả tất yếu này ban đầu những người CS chưa nhận thấy, đến khi nó bộc lộ rõ ràng thì cố tình che giấu hoặc ngụy biện để bao che. |
4. Rập khuôn theo phát xít nhưng lại hô hào dân chủ
Sự
xâm lược của Phát xít Đức vào Liên xô và sự thắng lợi của Hồng quân
trong đại chiến 2 làm nhiều người nhầm, cho rằng CS và phát xít là đối
nghịch nhau. Thực ra không phải như vậy. Jeliu Jeliev, một trí thức
Bungari, năm 1967 đã viết quyển sách Chế độ phát xít (năm 1990 Jeliu
Jeliev được bầu làm Tổng thống của Bun). Đọc xong quyển Chế độ phát xít
(Hitler-Đức và Mutxôlini-Ý) mới thấy tổ chức xã hội và sự thống trị của
ĐCS Việt Nam gần như sao chép từ chế độ đó. Về nhà nước, đó là việc đặt
Đảng bao trùm lên toàn bộ chính quyền và xã hội, tạo ra một chính quyền
nữa cao hơn, là việc bầu cử hài hước để tạo ra Quốc hội bù nhìn, là tổ
chức công an, mật vụ để do thám tổng thể và đàn áp, là các tòa án bị
Đảng thao túng, viện kiểm sát phải phục tùng cảnh sát, là việc dùng thủ
đoạn dối trá và bạo lực trong cai trị, là việc bóp nghẹt tự do dân chủ,
lập các trại cải huấn v.v… Về nhân dân, đó là cách khống chế mọi tầng
lớp xã hội trong các đoàn thể quần chúng, biến nhân dân thành quần thể
không tính cách, mọi thứ phải phục tùng đảng, là mâu thuẩn giữa đảng và
tầng lớp trí thức chân chính, là sự tan rã của tầng lớp tinh hoa, là
sùng bái cá nhân lãnh tụ v.v... Xét về mặt thống trị thì CS và phát xít
giống như hai anh em sinh đôi, được bú từ một nguồn sữa. Thế nhưng cứ
nghe những lời tuyên truyền thì chế độ CSVN “dân chủ đến thế là cùng”,
là dân chủ gấp hàng ngàn, hàng vạn lần các nước tư bản. Không biết họ
nói thế và có tin vào điều đó không vì không thấy họ ngượng mồm một chút
nào cả. Cũng không biết họ định đánh lừa ai. Hay là họ đã quen cho rằng
dân chúng chỉ là một lũ người bảo sao nghe vậy. Mà khổ thay, vẫn có
người tin và phụ họa lời họ nói.
CSVN và phát xít giống nhau nhiều
điểm về thống trị, về đàn áp, nhưng có vài điểm CS không học được phát
xít, đó là sự minh bạch và vững mạnh của chính quyền, là sự phát triển
kinh tế hùng hậu. Cũng chưa nghe nói đến đảng phát xít phải ra nghị
quyết làm trong sạch và chỉnh đốn.
5. Đại bi kịch
Tóm lại
xã hội Việt Nam hiện nay là sự trộn lẫn các phần của CNXH, phong kiến,
tư bản, phát xít, mà thảm thương thay lại chủ yếu là trộn lẫn những phần
xấu xa nhất, tệ hại nhất của từng chế độ để tạo nên một đại bi kịch cho
xã hội (về hiện tượng, nhiều người thấy rõ, xin không kể ra dài dòng).
Sẽ có người hỏi, nói như vậy có bôi đen quá mức không? Sao không nhìn
vào những sân bay, những con đường, những chiếc cầu, những tòa nhà cao
tầng được xây dựng ở khắp nới, sao không nhìn vào xuất khẩu tôm cá, lúa
gạo, hoa quả, dầu thô, quần áo, giày dép, sao không nhìn vào vị thế
ngoại giao với nhiều nước và Liên Hiệp Quốc, sao không biết sự tăng
trưởng GDP mỗi năm đều trên 6%, sao không so sánh đời sống của dân chúng
bây giờ với trước 1945 và thời kỳ 1980 v.v... Xin thưa, có nhìn thấy chứ.
Nếu không có những thứ đó thì Đảng tiêu vong rồi, dân tộc lụn bại lâu
rồi chứ đâu còn như bây giờ để thảo luận. Có so sánh chứ. So sánh theo
phương dọc, nghĩa là so sánh ta với ta qua thời gian, và so sánh theo
phương ngang, là so sánh ta với người khác trong cùng thời gian và hoàn
cảnh. Khi so sánh theo phương ngang mới thấy chúng ta thua kém người ta
quá chừng.
Trong lúc nội chính còn bị rối như tơ vò thì thảm họa từ Trung cộng lại chụp xuống. Sự bành trướng với ý đồ “Bình thiên hạ” của Đại Hán đã hủy diệt dần dần các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Các dân tộc này đã có thời kỳ huy hoàng trong lịch sử, nhưng rồi vì chung ý thức hệ CS mà bị người Hán nô dịch . Đại Hán không ngừng âm mưu thôn tính và hủy diệt dân tộc Việt. Theo dự đoán của cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thì sau Hội nghị Thành Đô Việt Nam có thể mắc vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 5? Thế mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước cam tâm thần phục Đại Hán. Đó cũng là một trong những đại bi kịch. |
Có lý thuyết cho rằng kinh tế của xã hội phát triển hơn
kém nhau ở năng suất lao động, và năng suất đó của Việt Nam đứng vào
hạng thấp của khu vực và thế giới. Người ta kêu gọi tăng năng suất nhưng
không biết tăng bằng cách nào. Tuy vậy năng suất lao động cũng chỉ là
một chỉ tiêu của kinh tế. Quan trọng hơn là chỉ tiêu hiệu quả . Có thể
hiểu sơ lược: Hiệu quả P =[(T – C) / C] 100%. Trong đó T là phần thu
được, C là phần chi phí bỏ ra. Trong phần lớn báo cáo của mọi cấp mọi
ngành người ta chủ yếu nêu ra T mà ít quan tâm đến C và P. Nếu tính được
P cho nền kinh tế Việt Nam trong mấy chục năm qua thì thấy đó là một số
âm có giá trị tuyệt đối khá lớn. Hiệu quả âm có nghĩa là kết quả càng
lớn, làm càng nhiều thì thua lỗ càng nặng.Thể hiện rõ nhất của việc này
là vay nợ nước ngoài càng ngày càng tăng và trước mắt chưa có cách gì
trả được. Hàng năm phải vay thêm chỉ để trả phần tiền lãi.
Kinh
doanh, khởi nghiệp, các dự án phần lớn không lành mạnh. Đa số doanh nhân
làm giàu không phải bằng trí tuệ, sáng tạo mà bằng quan hệ đen tối, bất
chính với thế lực có quyền (chia chác, hối lộ). Những doanh nghiệp làm
ăn chân chính, không chịu chấp nhận liên minh ma quỷ với thế lực có
quyền thường bị đe dọa, bị phá phách, bị triệt hạ. Vụ bà Ba Sương với
Nông trường Sông Hậu, vụ kiện ra Tòa án quốc tế của ông Trịnh Vĩnh Bình,
quốc tịch Hà Lan, đòi Chính phủ Việt Nam bồi thường 1 tỷ USD là các dẫn
chứng sinh động. Làm kinh tế như vậy chủ yếu là trò trộm cướp, lừa đảo
chứ không phải phát triển đúng hướng.
Mà phát triển xã hội đâu phải
chỉ có kinh tế. Còn có thứ cần hơn là văn hóa, là đạo đức. Phát triển
kinh tế với hiệu quả âm, lại phá nát tài nguyên và môi trường, hủy hoại
văn hóa và đạo đức thì cái giá của nó là quá đắt. Trước năm 1986, vì
phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng trong chính sách kinh tế theo định
hướng XHCN mà đất nước lâm vào cảnh đói kém, kiệt quệ. Tình trạng đó làm
rối trí và mờ mắt nhiều người nên từ năm 1986, để sửa sai người ta lại
đổ xô vào phát triển kinh tế bất chấp mọi tai họa về môi trường và đạo
đức mà nó mang lại.
Để phát triển xã hội, ngoài kinh tế, văn hóa, đạo
đức, còn cần đến tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, một cuộc sống
yên bình, một xã hội tin yêu, thân thiện, chứ đâu có phải chỉ kinh tế.
Mà về kinh tế, con số tăng trưởng GDP hàng năm cũng rất đáng ngờ. Tăng
như thế mà sao năm nào ngân sách cũng thâm hụt, mà nợ nần vẫn chồng
chất, hay là phần lớn ngân sách tăng được lọt vào túi cá nhân.
Khi
nhìn xã hội hiện tại nhiều người thấy rõ (vì không giấu đi đâu được)
những tội ác như hủy hoại môi trường, nạn bạo hành, dân oan, hàng giả,
hàng lậu, thực phẩm bẩn v.v.., những quốc nạn như tham nhũng, lãng phí,
mua quan bán tước, giáo dục xuống cấp v.v... Đó chỉ là những thể hiện bề
ngoài. Tôi cho rằng tội ác lớn nhất nằm ở bên trong, phần nào bị che
giấu, mang sắc thái vô hình. Đó là sự phá nát truyền thống đạo lý và văn
hóa của dân tộc, là để cho việc gian dối trở thành phương châm xử thế
từ quan đến dân, là sự hủy hoại thành phần tinh hoa của dân tộc để phải
chấp nhận những kẻ vừa thiếu trí tuệ vừa kém đạo đức giữ những cương vị
lãnh đạo và quản lý đất nước. Công nhận rằng sự phá nát, sự hủy hoại này
không phải là ý đồ tự giác của CS, họ không cố tình làm những việc đó,
nhưng nó là kết quả tất yếu của đấu tranh giai cấp, của vô sản chuyên
chính, của công hữu hóa tư liệu sản xuất, của nền độc tài đảng trị.
Những kết quả tất yếu này ban đầu những người CS chưa nhận thấy, đến khi
nó bộc lộ rõ ràng thì cố tình che giấu hoặc ngụy biện để bao che.
Trong
lúc nội chính còn bị rối như tơ vò thì thảm họa từ Trung cộng lại chụp
xuống. Sự bành trướng với ý đồ “Bình thiên hạ” của Đại Hán đã hủy diệt
dần dần các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Các dân tộc này đã có thời kỳ
huy hoàng trong lịch sử, nhưng rồi vì chung ý thức hệ CS mà bị người Hán
nô dịch . Đại Hán không ngừng âm mưu thôn tính và hủy diệt dân tộc
Việt. Theo dự đoán của cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thì sau
Hội nghị Thành Đô Việt Nam có thể mắc vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 5?
Thế mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước cam tâm thần phục Đại Hán. Đó cũng là
một trong những đại bi kịch.
Vạch ra như thế để rồi tìm con đường
khắc phục. Việc đó như thế nào đã có nhiều người bàn tới. Riêng với tôi,
trước đây cũng đã có vài lần bàn đến. Lần này bài viết đã khá dài, xin
hẹn vào dịp khác.
N.Đ.C.
Khai Dân Trí | Nguyễn Đình Cống |
No comments:
Post a Comment