“TÀU THÌ LẠ MÀ HÈN HẠ THÌ QUEN”
Trúc Giang MN
1* Mở
bài
“Tàu thì lạ mà
hèn hạ thì quen” đó là nhận định chính xác về các đồng chí Hán ngụy hiện nay ở
Việt Nam.
Sở dĩ Trung Cộng ngang
nhiên đưa giàn khoan đến vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam đó là vì sự hèn
nhát và vì truyền thống cỏng rắn về cắn gà nhà, rước voi về vầy mả tổ của đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Trung Cộng coi vùng
Biển Đông như ao nhà của họ bởi vì Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng công nhận Hoàng
Sa và Trường Sa với lãnh hải 12 hải lý là của họ, và tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
đã từng xin cho Việt Nam được trở thành một khu tự trị trực thuộc chính quyền
trung ương ở Bắc Kinh. Do đó chuyện vừa xảy ra trên biển không có gì lạ
cả.
Thái độ hèn nhát của
Việt Cộng là đưa tàu ra ngăn chặn tàu Trung Cộng nhưng lại ra lịnh là tuyệt đối
không được nổ súng, cho nên tàu Việt Nam đưa hông ra cho tàu Trung Cộng đâm vào
làm hư hại 8 chiếc và làm tổng cộng 9 thủy thủ bị thương.
Sự hèn nhát khiến
cho nhà bình luận Nguyễn Hưng Quốc phải buộc miệng thốt ra “Sao bỗng dưng họ lại
hèn đến thế?”
Cái thâm độc của Trung
Cộng là, không chỉ chiếm dầu mỏ mà việc đưa giàn khoan là bước đầu thực hiện chủ
quyền trên một cụm đảo chung quanh Hoàng Sa mà họ đang làm chủ, và bước kế tiếp
là thực hiện quyền làm chủ toàn bộ vùng lưỡi bò trên biển Đông.
Trung Cộng biết Hoa Kỳ
không giúp Việt Nam để chống lại họ về quân sự, vì CSVN luôn luôn khẳng định
việc giải quyết song phương, tức là việc riêng của hai nước Cộng Sản anh em. Và
hơn nữa, Hoa Kỳ cũng khẳng định không can dự vào tranh chấp về chủ quyền ở biển
Đông, mà chỉ thực hiện những hiệp ước đã ký với các đồng minh trong
vùng.
Nhìn lại cuộc hải chiến
Trường Sa năm 1988 để thấy sự hèn nhát của đảng CSVN. Có câu: “Tàu lạ, người lạ
nhưng hèn hạ lại rất quen”.
2* “Sao tự dưng họ lại hèn đến như
vậy?”
Đó là cái tựa của bài viết của nhà bình luận của
Nguyễn Hưng Quốc, luận về chữ hèn của những lãnh đạo trong lịch sử Việt Nam.
Đề cập đến tình hình đang sôi động khi Trung Cộng
đưa giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam, nhà bình luận nầy buông một câu hỏi
lịch sử vô cùng thấm thía về hành động và bản chất hèn nhát của lãnh đạo đảng
Cộng Sản Việt Nam.
Bài viết nêu ra những cái hèn cụ thể như
sau:
-
“Hình như mọi người đều đồng thanh giới lãnh đạo Việt Nam: Hèn!”
-
“Trung Cộng ngang nhiên chiếm Hoàng Sa và Trường Sa mà chính quyền cúi đầu im lặng: Hèn!”
-
“Khiếp nhược trước Trung Quốc lại thẳng tay đàn áp thanh niên, sinh viên xuống đường phản đối bọn Tàu khựa: Lại Hèn!”
-
“Tàu Trung Quốc giết ngư dân Việt Nam trong vùng biển Việt Nam mà chính quyền không dám lên tiếng: Lại Hèn!”
-
Kết luận: “Tàu thì lạ mà hèn hạ thì quen”.
Nhà bình luận Nguyễn Hưng Quốc còn nương tay khi
viết mấy chữ “Sao bỗng dưng”, thật ra không phải “bỗng dưng”, mà đó là cái
truyền thống bán nước của đảng Cộng Sản Việt Nam từ thời Hồ Chí Minh, Phạm Văn
Đồng đến ngày nay. Hèn từ bản chất chớ không phải bỗng
dưng.
Từ hơn mấy chục năm nay, Trung Cộng đã ra lịnh cấm
đánh bắt cá trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam mỗi năm ba tháng. Những
ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trên vùng biển của mình thì bị cho là vi phạm luật
cấm, bị bắt, tịch thu dụng cụ và tài sản, đồng thời buộc phải đóng tiền phạt.
Những ngư dân bỏ chạy thì bị rượt đuổi theo bắn cháy tàu và bắn chết người, có
đến hàng trăm vụ như thế, thế mà lãnh đạo Việt Nam không có một người nào dám
lên tiếng phản đối bọn Trung Cộng cả.
Người dân chưa bao giờ nghe Nguyễn Phú Trọng, Ba
Dũng, Tư Sang và các lãnh đạo khác dám lên tiếng tố cáo và phản đối bọn Tàu khựa
nầy cả.
Quần chúng chỉ nghe anh cán bộ hạng bét phát ngôn
viên bộ Ngoại giao nhai đi nhai lại cái điệp khúc, bài bản cũ rich, nào là:
"Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của
mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và
quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, được xác
định phù hợp với Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm
1982".
Im lặng, ngoảnh mặt làm ngơ khi chủ quyền quốc gia
bị xâm phạm là một cái hèn, và hèn hạ hơn nữa là lại luôn luôn lên tiếng ca ngợi
tình hữu nghị Việt Trung trên 16 chữ vàng và 4 tốt. Đồng thời luôn miệng bày tỏ
lòng biết ơn sâu xa của đảng và nhân dân Việt Nam đối với đảng và nhân dân Trung
Quốc. Hết nước nói!
Trả lời truyền hình Reuters chiều 7-5, Giáo sư Carl
Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Australia nhấn
mạnh:
“Việt Nam nên tiếp tục phản đối ngoại giao ở cấp cao hơn với Trung
Quốc”
Nhận xét tế nhị
nhưng cho thấy lãnh đạo cấp cao đã im lặng vì hèn nhát trước kẻ
thù.
Đại tá Phạm Xuân
Phương từng công tác trong Cục Chính trị cho biết:
“Tôi nghĩ chuyện
này phải phản đối ở mức cao hơn nữa, ở mức chính phủ chứ không phải chỉ ở Bộ
Ngoại giao mà thôi. Phải nâng mức phản đối lên”.
3* Nhục nhã cho tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng
Ngày 5-5-2014, trong bài viết “ Việc phải tới, đã
tới” của biên tập viên Mặc Lâm, đài Á Châu Tự Do (RFA). Việc phải tới là hậu quả
của hành động bán nước. Việc đã tới là mất chủ quyền.
3.1. Nhận xét của Tiến Sĩ Vũ Cao
Phan
Bài viết của đài RFA nêu nhận xét của TS Vũ Cao
Phan, Phó chủ tịch hội Hữu nghị VN-TQ, nguyên cán bộ giảng dạy Học viện Quân sự
Cấp cao thuộc Học viện Quốc phòng, nêu ra những điều khiến Trung Quốc ngày càng
xem thường Việt Nam dẫn tới kết quả của ngày hôm nay:
“Quan hệ Việt Nam Trung Quốc có thể tốt nhưng phải
trên cơ sở bình đẳng. Tôi từng viết có một câu ngạn ngữ: “Đành để người ta ghét,
chớ để người ta khinh”. Tại sao Trung Quốc có hành động như thế? Thì họ có ý đồ
của họ nhưng cũng xuất phát từ cách hành xử của chúng ta. Đó là chúng ta ứng xử
mà không để cho người ta phải nể trọng”. Không nể trọng tức là khinh
miệt.
3.2. Nhận xét của ông Nguyễn Khắc
Mai
Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên
Cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh
Triết, đặt câu hỏi:
“Anh Nguyễn Phú
Trọng là Tổng Bí thư, ngày mùng 3 tháng 5 đi tiếp xúc cử tri để chuẩn bị ra họp
Quốc hội, không hề có một nửa tiếng, nửa lời. Tôi hỏi anh trong tư cách một Tổng
Bi thư của đảng cầm quyền mà như vậy thì là thế nào? Và tư cách của anh là một
lãnh đạo cao nhất của đất nước hiện nay thì như thế nào? Tôi rất bất bình và
thấy xấu hổ, nhục nhã khi một người lãnh đạo trước một sự kiện lớn của dân tộc
lại không hề có một nửa ý kiến. Như thế tấm lòng của anh với dân, với đất nước
là thế nào, anh sợ cái gì và tại sao anh không dám lên tiếng để phát động sức
mạnh của nhân dân bảo vệ đất nước?
Tôi xin nói rõ là
4 triệu đảng viên không đủ sức để bảo vệ dân tộc đâu, mà phải là toàn dân. Anh
không dựa vào dân, anh không phát động dân, anh không nói rõ chính kiến của mình
đối với dân, thì dân sẽ nghi ngờ anh làm tay sai cho họ. Anh có ngậm miệng trong
việc họ cho anh cái gì không, mà anh lại im lặng?
Trung Quốc cũng
đã bước chân vào căn nhà Việt Nam và đặt con dao trên bàn tiếp khách. Cách nói
chuyện làm sao để cho kẻ mạnh đừng vung dao vấy máu là điều khôn khéo của chính
phủ. Tuy nhiên cái gọi là khôn khéo bằng cách hạ mình đã bị phá sản, vì việc hạ
mình đã dẫn tới kết quả của ngày hôm nay”. (hết trích)
3.3. Ý kiến của thiếu tướng Nguyễn Trọng
Vĩnh
Thiếu tướng
Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc cho biết quan điểm của
ông về cách đối phó, trong đó kể cả khả năng đưa Trung Quốc ra
tòa:
“Tôi rất bất bình và thấy xấu hổ, nhục nhã khi một
người lãnh đạo trước một sự kiện lớn của dân tộc lại không hề có một nửa ý
kiến”.
Tất nhiên im lặng
thì Trung Quốc nó càng lấn tới. Ta không chủ động hành động quân sự nhưng mà
phải kiện ra tòa án quốc tế. Mình không chủ động dùng quân sự chống lại họ,
nhưng khi họ dùng quân sự đánh mình thì mình phải
đánh trả thôi”.
Khiếp nhược trước kẻ thù thì cũng là hèn. Quân đội
nhân dân anh hùng đâu rồi? Quân
đội ta khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Khí thế Điện Biên Phủ của ngày
7-5 vừa qua đâu rồi?
4* Cuộc “thư hùng” giữa tàu Trung Cộng và tàu Việt Nam
Bài báo trong nước ghi lại nội dung như
sau:
Trận “thư hùng oanh liệt” giữa tàu Việt Nam và tàu
lạ diễn ra sáng ngày 5-5-2014 tại một địa điểm cách giàn khoan HD-981 3 hải lý
tức là nằm ngoài vùng cấm tiếp cận của bọn Tàu khựa. Đoàn tàu Việt Nam gồm 29
chiếc lên đường lãnh nhiệm vụ ngăn chặn và bảo vệ chủ quyền của vùng biển Viêt
Nam.
Đoàn tàu Việt Nam đã anh dũng bất chấp những loạt
súng bắn bổng cảnh cáo của tàu lạ, hiên ngang tiến ra phía trước. Đoàn tàu lạ
gồm 80 chiếc ỷ thế đông và to lớn với tốc độ nhanh và mạnh, đã dùng vòi rồng và
súng nước áp suất cao ngăn chặn không cho tàu Việt Nam đến gần. Đồng thời, tàu
lạ dùng mũi tàu đâm vào hông tàu VN làm hư hỏng máy và các trang thiết bị khác.
Các tàu lạ có trang bị vũ khí đều mở bạt che súng,
che pháo để sẵn sàng nổ súng bất cứ lúc nào.
Vì có lịnh tuyệt đối cấm nổ súng nên tàu VN bèn
đưa hông tàu của mình cho tàu lạ đâm vào mà thôi.
Chỉ huy đoàn tàu VN cũng tệ thật. Lịnh cấm nổ súng
chớ đâu có cấm đâm lại tàu lạ? Lãnh đạo hèn nhát thì thuộc cấp cũng thế
thôi.
Kết cuộc 8 tàu VN bị đâm bể hông, lỗ rộng khoảng
3m, dài 1m, những trang thiết bị trên tàu bị vòi rồng của Trung Cộng làm hư
hỏng. Có tất cả 9 thủy thủ bị thương vì miển kiếng văng vào phần mềm của cơ thể,
không thấu xương.
Khả năng bảo vệ chủ quyền vùng biển VN chỉ có thế
thôi. Khiến cho nhà bình luận Nguyễn Hưng Quốc đã kết luận: “Sao tự dưng họ lại
hèn đến thế!”.
5* Giàn khoan
HD-981
5.1. Vị trí giàn khoan giữa “lãnh thổ” Trung
Cộng và lãnh thổ Việt Nam
Ngày 1-5-2014, cơquan chức năng Việt Nam phát hiện
giàn khoan HD-981 và 3 tàu bảo vệ của Trung Cộng di chuyển từ đảo Tri Tôn (thuộc
quần đảo Hoàng Sa hiện do Trung Cộng quản lý) về phía Nam. Đến ngày 2-5-2014,
giàn khoan neo đậu ở vị trí 18 hải lý về phía nam của đảo Tri Tôn, hiện do Trung
Cộng làm chủ. Giàn khoan được 27 tàu bảo vệ lập ra một khu vực cấm tiếp cận bán
kính 3 hải lý.
Đối với Việt Nam, giàn khoan nằm trong vùng Đặc
quyền Kinh tế (EEZ=Exclusive Economic Zone) của VN, cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi)
119 hải lý.
5.2. Những lý do được hai bên đưa ra tranh
cãi
Phía Trung Cộng.
Trung Cộng cho rằng đảo Tri Tôn là lãnh thổ của
họ, giàn khoan cách Tri Tôn 18 hải lý thì thuộc về vùng biển do họ làm
chủ.
Phía Việt Nam
Giàn khoan HD-981 cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) 119
hải lý, thuộc về Vùng Đặc Quyền Kinh tế của Việt Nam. Vì vậy giàn khoan Trung
Cộng xâm phạm chủ quyền vùng biển của Việt Nam.
6* Cuộc nói chuyện giữa hai người
điếc
Vào ngày 6-5-2014, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại
Giao Phạm Bình Minh điện đàm với Ủy viên Quốc vụ viện Trung Cộng là Dương Khiết
Trì, khẳng định “Việt Nam có đầy đủ
căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và
quyền chủ quyền, quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
theo các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982”. Ông
tố cáo Trung Cộng vi phạm chủ quyền
VN và cho biết VN sẽ áp dụng mọi biện pháp phù hợp để bảo vệ các quyền và lợi
ích chính đáng của mình.
Ngược lại, Dương Khiết Trì cảnh cáo VN là đã vi
phạm chủ quyền của họ. Lý luận đưa ra là giàn khoan nằm trong vùng tiếp giáp
lãnh hải 24 hải lý của lãnh thổ mà Trung Cộng đang làm chủ, đó là đảo Tri Tôn
thuộc quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của VN). Vùng lãnh hải 12 hải lý của Tây Sa
(Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) đã được Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng công nhận
bằng công hàm ngày 4-9-1958.
Do đó Dương Khiết Trì kêu gọi phía VN không nên
can thiệp vào hoạt động bình thường của Tổng Công ty Dầu khí ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC=
China National Offshore Oil
Corporation)
Trung Cộng tố cáo VN đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của họ khi can thiệp vào Tổng Công ty CNOOC.
Hai bên tố qua tố lại như thế sẽ làm sức mẻ tình
hữu nghị Việt-Trung trên căn bản 4 tốt và 16 chữ vàng, là lý tưởng mà CSVN đang
theo đuổi.
7* Cộng Sản Việt Nam bị kẹt bởi
cái công hàm năm 1958 và biên bản Thành Đô năm 1990.
Trên thực tế, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là của Việt Nam. Ai ai cũng biết như thế. Cũng trên thực tế, Trung Cộng đang làm
chủ quần đảo Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa do họ cướp
được.
Khi CSVN chấp nhận giải pháp song phương để giải
quyết vấn đề chủ quyền, thì bị kẹt bởi hai văn bản bán nước là công hàm ngày
4-9-1958 của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và biên bản Thành Đô năm 1990 của Nguyễn
Văn Linh.
Căn cứ vào hai văn bản nầy, Trung Cộng cho rằng đó
là bằng chứng lịch sử không thể chối cãi được, nó xác nhận quyền làm chủ của họ.
Đảng CSVN bị cứng họng, không thể chối cãi được vì hai văn bản còn sờ sờ trước
mắt, giấy trắng mực đen có đóng dấu ký tên. Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đâu có
phải là mấy cha căn chú kiết khố rách áo ôm, đầu đường xó chợ nào đó, mà chữ ký
bị xem thường và từ chối vì không có giá trị?
Cũng trên thực tế thì CSVN hoàn toàn bị lệ thuộc
vào Trung Cộng do chủ trương hợp tác chiến lược toàn diện, và bị lệ thuộc vào
Trung Cộng về chính trị, kinh tế, chiến lược quân sự, văn
hoá…
Khi chấp nhận giải pháp song phương thì vụ việc
Biển Đông được xem như công việc nội bộ của hai nước Cộng Sản anh em, và Việt
Nam như là một khu tự trị của chính quyền trung ương ở Bắc
Kinh.
Vậy thì vấn đề chủ quyền trên biển Đông chỉ có thể
giải quyết được khi loại bỏ cái đảng ôn dịch có truyền thống tôn thờ ngoại bang
(Mác&Lênin) và bán nước là đảng CSVN. Hoặc ít ra thì phải có hợp tác liên
minh với thế giới tự do như Philippines đã làm.
8* Giàn khoan Hải Dương HD-981 và
luật biển
8.1. Đặc điểm của giàn khoan
HD-981
Giàn khoan hải dương HD-981 (Haiyang Shiyou-981)
được cho là nửa chìm nửa nổi, thật ra nó là một hàng không mẫu hạm dầu mỏ
(Offshore Oil Aircraft Carrier) vì nó là một chiếc tàu khổng lồ di động bởi động
cơ đẩy sức mạnh bằng 5 đầu máy xe lửa. Phải mất ba năm mới hoàn thành với tổng
số chi phí lên tới 1 tỷ USD.
Giàn khoan được thiết kế bằng những trang thiết bị
hiện đại nhất thế giới. Bong tàu có kích cở bằng một sân bóng đá chuẩn, đủ sức
chịu đựng bão cấp 10.(từ 90 đến 102km/giờ). Hệ thống điều khiển hoàn toàn tự
động.
Dài 114m. Rộng 90m. Cao 137.8m. Nặng 31,000 tấn.
Hoạt động sâu 3,000m. Khoan sâu 12,000m.
8 máy phát điện công suất 44,000 kilowatt đủ cung
ứng cho 200,000 người, nơi dự trữ nhiên liệu cho máy phát điện có dung tích
4,500 tấn.
8.2. Giàn khoan HD-981 là lãnh thổ của Trung
Cộng
Ngày 7-7-2012, tờ Wall Street Journal vạch rõ chân
tướng của giàn khoan HD-981. Cho biết.
Đôi khi hãng dầu theo sau lá quốc kỳ. Đôi khi lá
quốc kỳ theo sau các hãng dầu. Và đôi khi hãng dầu lại trở thành lá quốc kỳ”, đó
là trường hợp của giàn khoan HD-981, nó là lãnh thổ di động của quốc gia Trung
Cộng. Giàn khoan HD-981 neo đậu ở đâu thì Trung Cộng có chủ quyền ở
đó.
Chủ tịch CNOOC (China National Offshore Oil
Corporation) mô tả tàu sân bay nầy là “Biên cương di động và là vũ khí chiến
lược trong việc khai thác dấu.
Giàn khoan neo đậu ở chỗ nào thì chỗ đó là lãnh
thổ và chủ quyền của Trung Cộng.
Biển Đông ước tính có từ 20 đến 30 tỷ tấn dầu mỏ
và 16,000 tỷ mét khối (m3) khí đốt tự nhiên.
8.3. Tóm tắt về Công Ước Quốc Tế về Luật
Biển
Công Ước LHQ về Luật
Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea-UNCLOS) thành lập năm
1982, có hiệu lực kể từ 16-11-1994.
Các quốc gia công nhận
và tự nguyện ký tên, cam kết thi hành, ngoại trừ Hoa Kỳ và một số nước khác. Nói
chung, quốc gia nào không công nhận, không ký tên, không phê chuẩn, thì không
cần phải thi hành. Đó là điểm yếu nhất của các Công ước QT, vì nó không có tính
cưỡng chế.
Những quy định căn bản
của Công Ước:
-
Lãnh hải quốc gia: 12 hải lý, nếu có bờ biển rộng.
-
Vùng tiếp giáp lãnh hải: 24 hải lý tính từ bờ biển trong đất liền.
-
Vùng Đặc quyền kinh tế: 200 hải lý từ bờ biển.
-
Thềm lục địa: 350 hải lý tính từ bờ biển.
Trong Vùng Đặc Quyền
Kinh tế (Exclusive Economic Zone-EEZ), Công Ước Luật biển có quy định những
quyền của các quốc gia khác như sau:
*Tự do hàng hải.
Là tàu thuyền dân sự của các quốc gia khác, có quyền lưu thông trong vùng biển
cách bờ 200 hải lý.
*Tự do hàng
không. *Tự do đặt ống dẫn ngầm và dây cáp.
Công Ước LHQ về Luật
Biển là căn bản pháp lý của Toà án QT về Luật Biển.
9* Sự khác biệt giữa COC và
DOC
COC= Code of Conduct là
Bộ quy tắc ứng xử. DOC= Declaration on the Conduct of Parties in the South China
Sea-DOC) là Bản Tuyên bố về cách ứng xử trên Biển Đông
9.1. Cần xây
dựng một Bộ quy tắc ứng xử
Để đạt được mục đích:
Xây dựng những chuẩn mực ngăn ngừa xung đột. Giải quyết xung đột. Xây dựng hòa
bình sau xung đột tại Biển Đông, tại phiên họp thượng đỉnh của ASEAN ở
Indonesia, hội nghị đã đồng ý là cần thiết phải xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử
(Code of Conduct-COC) ở Biển Đông, và cố gắng hoàn tất vào năm
2022.
Bộ Quy tắc ứng xử là
một bộ liệt kê những nguyên tắc, những điều khoản phải làm, xem như một nội quy
có tính pháp lý, buộc các bên phải tuân hành về những thỏa thuận và cam kết
trong việc giải quyết những tranh chấp với nhau. Về kinh tế bộ quy tắc hành động
thường áp dụng chung cho các công ty liên doanh và tổ chức đa thành
phần.
9.2. Bản Tuyên bố về
cách ứng xử trên Biển Đông
Khối ASEAN và Trung
Quốc, sau 3 năm làm việc với nhau mà không đạt được một Bộ quy tắc ứng xử về
Biển Đông (COC), cho nên phải hạ xuống một cấp, là đưa ra Bản Tuyên bố chung về
cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC. (Declaration on the Conduct of Parties
in the South China Sea-DOC).
Bản Tuyên bố chỉ
là một thông cáo phổ biến công khai sau những cuộc thảo luận, không phải là một
văn bản có tính ràng buộc các bên phải thi hành theo cam kết.
Nội dung của DOC năm
2002 như sau:
Không mở rộng vùng
chiếm đóng mới * Không làm phức tạp thêm tình hình * Hợp tác với nhau trong
những lãnh vực ít nhạy cảm như nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường, chống hải
tặc…
Bản Tuyên bố DOC được
ký giữa ASEAN và TQ năm 2002 tại thủ đô Phnom Penh của Campuchia. VN và ASEAN tố
cáo TQ không thi hành DOC, trái lại TQ cho rằng họ hành động hợp pháp trên phần
biển thuộc chủ quyền của họ. Tranh cãi kéo dài và bên nào cũng cho rằng mình
phải.
9.3. Từ DOC đến COC
còn là một khoảng đường rất dài
Đối với Hiệp Hội Các
Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), Trung Cộng là một cường quốc nên họ không dại gì
phải ký một thỏa thuận tự trói tay mình trong tham vọng làm chủ những vùng biển
Đông.
Trên nguyên tắc, những
bên thương thuyết cần phải có sức mạnh về quân sự hoặc về kinh tế để gây áp lực,
buộc đối phương phải chấp nhận làm những việc mà họ không muốn. Rất tiếc là khối
ASEAN không có hai thức sức mạnh đó. Cho nên từ DOC đến COC còn là một con đường
rất xa, rất dài.
10*
Trung Cộng khó có thể rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt
Nam
Trước khi quyết định
đưa giàn khoan vào vị trí hiện tại, đương nhiên là Trung Cộng đã tính toán, cân
nhắc, đo lường khả năng phản ứng của các đồng chí Hán ngụy, bởi vì sẽ không còn
mặt mũi nào khi phải rút trở ra trong khi vẫn an an toàn toàn nắm quyền chủ động
ở thế thượng phong.
Vậy thì giải quyết vụ
việc như thế nào?
10.1. Gác bỏ chủ
quyền qua một bên
GS Tô Hào, Phó Giám đốc
Trung tâm Nghiên cứu QT của Bộ Ngoại Giao cho biết, đến lúc phải “dẹp vấn đề chủ
quyền qua một bên, tạo ra vùng biển hợp tác chung”.
Trước kia, CSVN đã đồng
ý chấp thuận gác bỏ vấn đề chủ quyền qua một bên, ai chủ ai tớ thì hiểu ngầm với
nhau là đủ rồi. Một giải pháp gọi là hợp tác khai thác chung hai bên đều có lợi
cũng đã được CSVN nhất trí.
Việt Nam không có
phương tiện hiện đại để tự khai thác nên giao cho Ấn Độ.
Ngày 1-5-2014, đài VOA
cho biết Việt Nam đề nghị dành hai lô nữa thêm cho 5 lô đã được giao cho công ty
dầu khí quốc Ấn Độ ONGC (Oil and Natural Gas Corporation) vào hồi tháng 11 năm
2013.
Tất cả những lô đó
không qua thủ tục gọi thầu. Thế nhưng, tờ Kinh tế thời báo Ấn Độ dẫn lời của các
viên chức chính phủ, cho rằng Ấn Độ chỉ nhận một trong 5 lô trước kia, còn hai
lô sau nầy sẽ được cứu xét lại sau.
10.2. Ủy Ban
Chỉ Đạo Hợp tác song phương ra đời
Phiên họp Ủy ban Chỉ
đạo hợp tác song phương Việt Nam – Trung Quốc
Nói đến “Hợp tác song
phương” có nghĩa là không còn tranh chấp về chủ quyền nữa, mà là bàn về việc hợp
tác chung của 2 bên để cùng khai thác tài nguyên.
Ngày 11-5-2013, tại Bắc
Kinh, diễn ra phiên họp thứ 6 của Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp tác song phương Việt-Trung.
Nguyễn Thiện Nhân làm chủ tịch ủy ban Việt Nam, Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương
Khiết Trì, Chủ tịch ủy ban TQ.
Hai bên nhất trí thúc
đẩy tổng thể cùng có lợi trên mọi lãnh vực. Đương nhiên là trong đó có phần phân
chia tài nguyên dầu khí ở Biển Đông.
11* Mang ơn và kể
ơn
11.1. Việt Nam luôn
tỏ lòng biết ơn Trung Quốc vĩ đại.
Trung Cộng thường chửi
Cộng Sản Việt Nam một cách thậm tệ, nào là vong ân bội nghĩa, phản bội, tiểu
nhân bỉ ổi, lòng lang dạ sói, vô liêm sỉ…cho nên lãnh đạo đảng CSVN luôn miệng
tỏ ra một lòng một dạ mang ơn Trung Cộng.
Nguyễn Tấn Dũng nói
rằng “Việt Nam luôn luôn ghi nhớ sự giúp đở to lớn của Đảng, nhà nước và nhân
dân Trung Quốc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong việc
xây dựng phát triển kinh tế ngày nay. Khẳng định, chính sách trước sau như một
của VN là tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ hữu nghị trên phương châm 16
chữ vàng và 4 tốt”.
Nguyễn Chí Vịnh tuyên
bố: “Việt Nam không bao giờ dựa vào bất cứ một quốc gia nào để chống lại Trung
Quốc. Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác phát triển, thì đâu có ai
hơn được một Trung Quốc XHCN láng giềng, với hơn 1 tỷ 300 triệu dân, đang phát
triển và có vị trí và uy tín ngày càng cao trên thế giới.”
11.2. Trung Cộng kể
ơn
Trong khi Việt Nam tổ
chức kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 – 7-5-2014) tại Hà Nội
thì Trung Cộng cũng tổ chức kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ để kể công và để
nhắc nhở VN phải đền ơn đáp nghĩa một cách cụ thể hơn là những lời nói
suông.
Ngày 4-5-2014, Viện
Khoa học Xã hội tỉnh Quảng Tây và Viện Nghiên cứu Đông Nam Á Quảng Tây đã tổ
chức lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và quan hệ Việt Trung tại Nam
Ninh, khu tự trị của dân tộc Choang, Quảng Tây.
Viện trưởng Lữ Dư Sinh
ôn lại việc Trung Quốc đã cử những đoàn cố vấn chính trị và quân sự sang giúp đỡ
Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng, và những cuộc kháng chiến nói
chung. Trung Quốc khẳng định chiến thắng vĩ đại đó thể hiện tình nghĩa sâu đậm
của Trung Quốc đối với Việt Nam. Trung Quốc đã góp phần to lớn trong chiến thắng
lẫy lừng đó.
Phía Việt Nam, ông Phan
Huy Minh, đại diện Tổng lãnh sự quán VN, bày tỏ lòng biết ơn sâu xa và khẳng
định, Đảng, Nhà nước và nhân dân VN hết sức trân trọng sự giúp đỡ quý báu đó, và
nguyện sẽ luôn luôn ghi lòng tạc dạ ân nghĩa đó của Trung Quốc, vừa là đồng chí
vừa là anh em.
Buổi lễ được tổ chức ở
khu tự trị người Choang nhắc nhở VN cũng là khu tự trị mà Nguyễn Văn Linh tha
thiết thỉnh cầu ở Thành Đô năm 1990.
Quen miệng hứa ẩu nên
nay mới bị kẹt.
11.3. Cộng Sản VN
lâm vào tình trạng khó xử: trên đe dưới búa.
Theo nhận định của hãng
tin AP (Associated Press) thì chính quyền độc đoán CSVN bị lâm vào tình trạng
khó xử vì người dân và những người bất đồng chính kiến vẫn căm ghét quan thầy
của CSVN là Trung Cộng. Các thái thú Hán ngụy bị kẹt ở tư thế trên đe dưới búa,
giữa quan thầy và nhân dân.
Hiện có những lời kêu
gọi biểu tình, và đã biểu tình của 20 tổ chức dân sự VN, yêu cầu CSVN có thái độ
quyết liệt hơn là những lời tuyên bố suông, đánh giặc mồm, ngoại
giao.
Yêu cầu trả tự do
cho những công dân yêu nước chống Trung Cộng như: Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh,
Điếu cày Nguyễn Văn Hải, Bùi Thị Minh Hằng, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Xuân
Nghĩa, Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình, Đinh Nguyên Kha…
“Trận hải chiến”
Trường Sa nêu bật khả năng bảo vệ lãnh thổ do thái độ hèn nhát trước kẻ
thù.
12* Về
trận hải chiến Trường Sa
Ngày 14 tháng 3 năm
1988, một trận đụng độ giữa Hải quân Trung Cộng (HQ/TC) và Hải quân Cộng Sản
Việt Nam (HQ/CSVN) tại khu vực của Quần đảo Trường Sa. Thắng lợi về phía TC.
Phía CSVN mất 3 hải vận hạm và 64 thủy thủ tử thương.
Tài liệu về "Hải chiến"
Trường Sa của HQ/CSVN được đặt dưới cái tên CQ-88 (Chủ Quyền 88)
Cuộc đụng độ giữa hải
quân TC và hải quân CSVN diễn ra ở 3 đảo chính là: Đảo Gạc Ma, Đảo Cô Lin và Đảo
Len Đao.
12.1. Lực lượng tham
chiến của 2 bên
1). Hải quân Trung
Cộng
Chỉ huy. Trần Vĩ Văn
(Chen Weiwen), Hạm trưởng tàu Nam Sung (502)
Các tàu chiến: Tàu 502,
Nam Sung (Nan Chong), Tàu 065, Giang Nam (Jiangnan), Tàu 556, Trương Đàm
(Xiangtan), Tàu 331, Ưng Đàm (Yiangtan)
2). Hải quân Cộng
Sản Việt Nam.
1. Hải vận hạm 605,
Thần Kim Qui (USS PGM-59) là tàu của Hoa Kỳ chuyển giao cho HQ/VNCH, 2. Tàu 604,
(USS PGM-68), 3. Tàu 505, Nha Trang (USS Jerome County)
Trung đoàn Công binh
83, Lữ đoàn 146, LĐ 125, LĐ 172, Các hải đội 131, 132, 134, 41 tàu thuyền và
phương tiện nổi.
12.2. Cuộc “thi đua”
chiếm đảo
Đầu năm 1988, HQ/TC bắt
đầu chiếm một số bãi đá thuộc khu vực Trường Sa.
1). Hải quân Trung
Cộng chiếm các đảo.
Ngày 31-1-1988. HQ/TC
chiếm bãi Đá Chữ Thập. Ngày 18-2-1988, chiếm đảo Châu Viên. Ngày 20-2-1988,
chiếm Ga Ven. Ngày 28-2-1988, chiếm đảo Huy Cơ . Ngày 23-3-1988, chiếm Xu
Bi.
Như vậy, TC chiếm 5 đảo
và bãi.
2). Hải quân CSVN
chiếm đảo
- Ngày 26-1-1988,
HQ/CSVN chiếm đảo Đá Tiên Nữ. - Ngày 5-2-1988, chiếm đảo Đá Lát
- Ngày 6-2-1988, chiếm
đảo Đá Lớn. - Ngày 18-2-1988, chiếm đảo Đá Đông. - Ngày 27-2-1988, chiếm đảo Tốc
Tan. - Ngày 2-3-1988, chiếm đảo Núi Le.
Như vậy, trong cuộc
“thi đua chiếm đảo”, CSVN thắng lợi vẻ vang vì đã chiếm được 6 đảo của mình,
trong khi đó TC chỉ chiếm có 5 đảo mà thôi.
Việc thi đua chiếm đảo
tự nó mang ý nghĩa là Hải quân nước nào có mặt ở đảo nào, thì đảo đó thuộc chủ
quyền của quốc gia đó.
Hành động thi đua chiếm
đảo, tự nó đánh mất chủ quyền của VN trên quần đảo Trường Sa. Cũng như nhà của
mình, mà kẻ địch vào chiếm phòng khách, thì mình chạy đi chiếm nhà bếp, địch
chiếm phòng ngủ, thì mình chiếm phòng ăn...
12.3. “Thi đua” cắm
cờ giành đảo
Theo tài liệu CQ-88,
trích như sau:
"Lúc 19h ngày 11-3, tàu
HQ 604 rời cảng ra đảo Gạc Ma để thực hiện nhiệm vụ CQ-88 (CQ=Chủ
Quyền-88)
Ngày 12 tháng 3, tàu HQ
605 thuộc Lữ Đoàn 125, do thuyền trưởng Lê Lệnh Sơn chỉ huy, được lệnh trên chỉ
thị từ Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6h ngày 14-3. Sau 29 tiếng hành
quân, tàu 605 đã đến Len Đao lúc 5h ngày 14-3 và cắm cờ Việt Nam trên
đảo.
1). Giữ đảo Gạc Ma
và Cô Lin
Tàu HQ 604 khi nhận
lệnh ra Gạc Ma. Con tàu 505 ở đảo Cô Lin
Tài liệu CQ-88 ghi lại
như sau:
"Lúc 9h ngày 13-3, HQ
604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và HQ 505 của thuyền trưởng Vũ Huy Lễ, được
lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về đảo Gạc Ma và Cô Lin.
Hai phân đội công binh
(70 người) thuộc trung đoàn Công binh 83, chia ra 4 tổ chiến đấu (22 người)
thuộc Lữ đoàn 146, do Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó chỉ huy.
Sau khi 2 tàu 604 và
505 thả neo được 30 phút, thì tàu hộ vệ Trung quốc từ Huy Cơ chạy về phía Gạc
Ma, hai bên cách nhau 500 mét.
Đến 17h ngày 13-3, tàu
TQ áp sát vào 604 và dùng loa gọi sang. Tuy bị "uy hiếp", hai tàu 604 và 505 vẫn
kiên trì giữ neo.
Còn chiến hạm TQ cơ
động chạy quanh đảo Gạc Ma.
"Trước tình hình căng
thẳng do Hải quân Trung Quốc gây ra, Bộ Tư Lệnh HQ/VN ra chỉ thị cho Trần Đức
Thông, Vũ Huy Lễ, Vũ Phi Trừ, chỉ huy bộ đội quyết giữ vững các đảo Gạc Ma và Cô
Lin. Tiếp đó, Bộ TL/HQ chỉ thị cho lực lượng công binh khẩn trương tiến hành
dùng thuyền nhỏ chở vật liệu xây dựng lên đảo ngay trong đêm
13-3.
Thi hành mệnh lệnh, tàu
604 cùng lực lượng công binh trung đoàn 83 chuyển vật liệu lên đảo Gạc Ma. Tiếp
đó, lực lượng của Lữ Đoàn 146 bí mật đổ bộ lên cắm cờ VN và triển khai 4 tổ
chiến đấu bảo vệ đảo.
Lúc nầy, TQ phát loa
yêu cầu VN rút ra khỏi đảo Gạc Ma.
Ban chỉ huy tàu 604 họp
lại để nhận định và nhất trí quyết tâm bình tĩnh xử trí, thống nhất hành động,
thực hiện phương án tác chiến đề ra với quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
Trần Văn Phương và 2
chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn Lanh được cử lên bảo vệ cờ Việt Nam được cắm
trên bãi.
Phía TQ cử 2 xuồng chở
8 lính "và vũ khí" lao thẳng về phiá đảo. Chỉ huy Trần Đức Thông ra lệnh cho các
thủy thủ từ tàu 604 tiến về bảo vệ bãi để hình thành một tuyến phòng thủ, không
cho đối phương tiến lên".
"Lúc 6h ngày 14-3, bọn
TQ thả 3 thuyền nhôm và 40 quân, đổ bộ lên đảo. Bọn TQ dựa vào thế quân đông (40
người) tiến đến giật cờ. Lập tức, Thiếu úy Trần Văn Phương, hạ sĩ Nguyễn Văn
Lanh cùng đồng đội anh dũng, xông lên giành lại cờ. Bọn TQ láo xược, hung hản đã
dùng lê đâm và bắn Nguyễn Văn Lanh bị thương. Thiếu úy Trần Văn Phương xông ra
cứu bạn, lập tức bị bọn TQ bắn chết.
Trước khi tắt thở, Trần
Văn Phương hô to "Thà hy sinh chớ không chịu bị mất đảo. Hãy để cho máu của mình
tô thắm lá cờ truyền thống của HQ/VN"
Nhận xét về
phần trên.
Nhiệm vụ của HQ/CSVN là
được lịnh rõ ràng ra trận chiến đấu bảo vệ lãnh thổ VN. Cường địch trước mắt thế
mà 2 tàu chiến 604 và 505 lại thả neo đậu lại một chỗ, có nghĩa là làm tấm bia
cố định, đưa lưng ra cho địch bắn vào cho chính xác.
Tình trạng trước mắt
không phải là lúc để cho công binh lên đảo dùng gạch, đá, cát, xi măng xây trụ
cờ, mà cũng không phải là lúc để cắm cờ. Mà chính là lúc phải đuổi giặc, ngăn
cản giặc bằng vũ khí.
Bọn TC 40 người mà bảo
là ỷ vào số đông, mà lại còn dùng tay không giành giật cờ với kẻ địch. Thế thì
Lữ đoàn 146 đã lên đảo tổ chức 4 tổ chiến đấu trốn ở đâu mà không ra bảo vệ
cờ?
Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh
bảo vệ cờ bằng cách nào? Tại sao thằng TC lại dám giật cờ khi mà trong tay bộ
đội tên Thông có súng? Và nếu có súng trong tay mà để bị giật cờ và để bị đâm
bằng lưỡi lê thì thật là quá tệ. lại hèn!
Hết vụ thi đua chiếm
đảo rồi đến vụ thi đua giật cờvà tuyến bố là hành động dũng cảm bảo vệ lãnh thổ
quốc gia, thì thật là quái gở vô cùng.
Bảo vệ "lá cờ tổ quốc" bằng tay không và bị mất cờ và mất mạng trong tay 40 thằng Tàu, thì
quả thật là
quá bết bát. Thế thì tàu chiến 604 ở đó làm gì? Ngoài việc đứng xem đồng đội ngã
xuống?
Lại còn cái màn họp để
ra quyết tâm và nhất trí trong lúc súng của kẻ thù đang nhắm vào đầu thì thật là
hết nước nói nữa rồi.
Lại còn cái màn hô khẩu
hiệu trước khi chết nữa. Nguyễn Văn Trổi trước khi bị bắn cũng hô khẩu hiệu, bác
sĩ gái Đặng Thùy Trâm bị mấy viên M-16 vào đầu, cũng hô khẩu hiệu trước khi tắt
thở. Thật là quê quá!
Tài liệu CQ-88 ghi
tiếp:
"Do HQ/VN không chịu
rút khỏi đảo, vào lúc 7h30 TQ dùng 2 chiến hạm bắn pháo 100 mm vào tàu 604 đang
thả neo, làm tàu bị hỏng nặng, HQ/TQ cho quân xông về phía tàu VN, Thuyền trưởng
Vũ Phi Trừ chỉ huy quân trên tàu sử dụng các loại vũ khí AK, RPD, B-40, B-41
đánh trả quyết liệt, buộc đối phương phải nhảy xuống biển bơi trở về
tàu.
Hải quân VN vừa chiến
đấu vừa tổ chức băng bó, cứu chữa thương binh. TQ tiếp tục nã pháo, tàu 604 bị
thủng nhiều lổ rồi chìm dần.
Vũ Phi Trừ, thuyền
trưởng, Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó LĐ 146 cùng một số thủy thủ trên tàu tử trận
cùng tàu 604 ở khu vực đảo Gạc Ma"
Nhận xét phần
trên
Cái chết của Vũ Phi Trừ
thật là lãng nhách. Đã là thuyền trưởng của 1 chiến hạm gốc của Hoa Kỳ, có trang
bị đủ thứ súng trong tay, thế mà thuyền trưởng lại đi chỉ huy đám lính bắn AK,
B-40... rồi lại vừa khẩn trương, tiến hành, tham gia tổ chức băng bó vết thương,
vừa cứu thương binh, đúng là thuyền trưởng làm công việc tào lao quá! Tàu bị
chìm là do cái tào lao nầy gây ra.
Tàu 604 bị bắn chìm,
thế mà không dám bắn trả một phát đạn nào cả, nể nang kẻ thù thì cũng phải có
chừng mực nào đó thôi chớ!. Chiến thuật hải chiến nào cho phép tàu chiến thả neo
đậu lại một chỗ, đưa lưng ra hứng đạn?
Trận chiến ở đảo Cô
Lin.
Tài liệu CQ-88 ghi như
sau:
"Tại đảo Cô Lin, lúc
6h, tàu HQ 505 của VN đã cắm xong 2 lá cờ trên đảo. Khi thấy tàu 604 bị chìm,
tuyền trưởng HQ 505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo, cho tàu ủi bãi.
Phát hiện tàu 505 lên
bãi, 2 tàu của TQ quay sang tấn công. Khi tàu trườn lên được 2 phần 3 thân tàu,
thì tàu bốc cháy.
8h15, thủy thủ tàu 505
“triển khai” lực lượng dập tắt lửa, bảo vệ đảo, và đưa xuồng đến cứu thủy thủ
của tàu 604 ở đảo Gạc Ma gần đó".
Nhận xét phần
nầy.
Rõ ràng là tàu 505 "lâm
trận bỏ chạy". Hành động ủi bãi thật đúng là bỏ chạy. Bởi vì, tàu là phương tiện
chiến đấu trên mặt biển. Khi ủi bãi, thì tàu bị đặt vào tình trạng "mắc cạn"
cũng giống như con rùa bị lật ngữa trên mặt đất vậy. Tàu không thể chạy trên đất
liền được. Ủi bãi là để tránh cho tàu không bị chìm và cũng để cho thủy thủ được
an toàn ở trên bờ, nghĩa là không bị trôi giạt trên biển cả và sẽ bị chết vì
khát, vì đói và vì cá mập.
Tinh thần chiến đấu còn
tệ hại hơn nữa khi thấy tàu 604 bị chìm. Đáng lẻ, phải chỉa tất cả súng ống vào
tàu địch, rồi mở máy hết ga đâm vào tàu địch cho cả hai cùng chìm, để trả thù
cho bạn. Nếu không làm được, thì bỏ chạy.
Thật sự, đây không phải
là một trận hải chiến, bởi vì các tàu chiến CSVN có dám bắn phát súng nào vào
tàu địch đâu?
Mặt trận đảo Len
Đao
Tài liệu CQ-88 ghi như
sau:
"8h20 ngày 14
tháng 3, HQ/TQ bắn mãnh liệt vào tàu 605 của HQ/VN. Tàu 605 bốc cháy và chìm vào
lúc 6h ngày 15-3, thủy thủ đoàn bơi vào đảo Sinh Tồn.
Thiếu úy Nguyễn Văn
Chương và Trung úy Nguyễn Sĩ Minh tổ chức đưa thương binh về tàu 505 sau khi bị
bắn cháy nằm trên đảo Cô Lin. Số người còn sức, một tay bám vào thành xuồng, một
tay làm mái chèo đưa xuồng lết trên mặt nước để tới bãi Cô Lin.
Kết
quả.
Trong trận chiến ngày
14-3-1988, VN bị thiệt hại, 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 70 người bị mất tích. Sau
đó, TQ thả 9 người, 61 người vẫn còn mất tích, được xem là tử trận cộng với 3
người chết tại chỗ là 64 ".
Thông tin
thêm.
"Trong suốt thời gian
xảy ra chiến sự, HQ Liên Xô đóng ở Cam Ranh đã không can thiệp, mặc dù giữa VN
và LX đã có Hiệp ước Liên Minh Quân Sự được ký vào tháng 11 năm
1978.
Tháng 5 năm 1978, 2
tháng sau ngày Hải chiến Trường Sa, một Nghị Quyết của Bộ CT đảng CSVN đã điều
chỉnh cơ bản chiến lược đối ngoại dựa vào Liên Xô, chuyển sang Đa phương
hoá".
Trong trận hải chiến
Trường Sa ngày 14-3-1988, CSVN tố cáo Trung Cộng là "Hải quân Trung Quốc đã tấn
công và tàn sát những người lính công binh VN “không võ trang” và đã chiếm đảo
ngày 14-3-1988" (The Chinese Communist Naval Forces attacked and murdered
unarmed Vietnamese troops of Army Corp of Engineers and occupied the Spratly
Islands on 03-14-1988"
13*
Kết luận
Trung Cộng vào chiếm
vùng biển Việt Nam, không chỉ cướp tài nguyên mà còn thực hiện một âm mưu thâm
độc là từng bước xác định quyền làm chủ cả vùng biển hình lưỡi bò như đã tuyên
bố. Trung Cộng hiện đang làm chủ quần đảo Hoàng Sa và 5 đảo và bãi đá ở quần đảo
Trường Sa.
Đảng CSVN không giữ
được chủ quyền lãnh thổ vì đã hèn nhát trước kẻ thù cướp nước là Trung Cộng.
Không chỉ hèn nhát mà còn là truyền thống bán nước lâu đời nữa.
Việt Nam không có một
hiệp ước quân sự với bất cứ quốc gia nào. Khi VN tuyên bố giải quyết tranh chấp
song phương thì chả có ai muốn xen vào binh vực cả. Hoa Kỳ vẫn giữ lập trường là
không can thiệp vào vấn đề tranh chấp chủ quyền với bất cứ quốc gia nào. Mỹ chỉ
binh vực và bảo vệ những quốc gia có hiệp ước với Mỹ mà thôi.
Qua vụ giàn khoan
HD-981, Việt Cộng thể hiện rõ nét cái bản chất gọi là hèn với giặc, ác với
dân./.
Trúc Giang
Minnesota ngày
11-5-2014
Khai Dân Trí | Trúc Giang |
No comments:
Post a Comment