Thói hư tật xấu của người mình!
Thói hư tật xấu của người mình!
Trần Văn Giang
Lời giới thiệu:
Không hiểu cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí”
của Bá Dương (“Bo Yang”) được xuất bản cách đây gần hai chục năm có liên quan
gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm nay hay không?
[Nên biết bên Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương
tự là "The ugly American"
của WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE BURDICK xuất bản năm 1958 đã trở thành cuốn
sách bán chạy nhất thời đó].
Tuy nhiên, hình như có nhiều liên quan giữa
sự can đảm nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ
cho dân tộc (!)
Ở hoàn cảnh Việt Nam, đã gần một thế kỷ rồi,
thế hệ cha ông của chúng ta cũng đã có rất nhiều người dám vạch thẳng những
tính xấu, những hủ tục của người Việt mình để biết mà sửa đổi (!) Nhưng mà
không thấy có ai chịu nghe??? Để xét cái
kết quả (“không khá”) này, cứ việc nhìn vào hiện tình dân tộc Việt ở trong nước
lẫn ở hải ngọai; cứ nhìn vào chính bản thân mình, đồng bào và các tổ chức / hội
đoàn chung quanh mình chứ chẳng cần tìm đâu xa!
Đến lúc này, thế hệ chúng ta, giữa những thay đổi lớn lao đang và vừa mới
xẩy đến cho dân tộc chúng ta, giữa khát vọng phục hưng dân tộc… đây là một cơ
hội thật tốt để cùng nhau đọc lại những nhận định mà các vị tiền bối đã viết về
nhũng cái xấu xa của người mình và rồi tự đặt câu hỏi cho bản thân và cộng đồng
của mình phải làm gì để cho dân tộc mình khá hơn?
“Có lẽ ta đâu
mãi thế này …”
(Nguyễn Công Trứ - “Quân tử cố cùng”)
TVG
|
1- Chơi bời lãng phí
Trần Chánh
Chiếu
(“Lục tỉnh tân
văn,” năm 1907)
Theo tục ông
bà để lại, hễ mãn một năm thì ăn Tết một lần ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ
tới ngày ấy, ai ai cũng đốt pháo, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh
đáo đánh quần tới bảy bữa, rồi nào me, nào lú (1), bài cào, xóc đĩa, tổ tôm đủ
thứ. Thậm chí có ông ăn Tết rồi thì bán nhà bán cửa, nợ réo trước nợ réo
sau. Đã “bần nhược” (2) lại “đãi đọa”
(3) vậy thì biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng?
|
(1) Theo Huỳnh Tịnh Của, “Đánh me” là
"gây ăn thua trong cuộc chơi tiền,” còn “Lú” là "cuộc chơi con nít
dùng tiền mà đánh đố.”
(2) Nghèo đói.
(3) Biếng nhác.
2- Ở đâu cũng thấy học đòi làm dáng
(“Hiếu thượng,” Tri tân, năm 1943)
Cái hiếu
thượng (1) của số đông người mình đã lộ rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi
trong gia đình đến động tác ngoài xã hội. Người ta chơi câu đối? Phần đông
không phải vì thích chữ tốt yêu văn hay nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc
khoản (2) có chức tước. Người ta in danh
thiếp? Không phải vì cốt thông tính danh
tỏ địa chỉ, song hình như chỉ cốt trưng những chức sắc tước trật và phẩm
hàm. Người ta đăng cáo phó? Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều
cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con
cháu.
Cái bệnh hiếu
thượng ấy truyền nhiễm đến cả nữ giới làm cho lắm người cũng mắc lây. Một dạo ở xã hội ta nổi lên cái phong trào
“phi cao đẳng bất thành phu phụ.” Vì thế
trong cuộc hôn nhân đã xảy ra lắm chuyện buồn cười. Hoặc mượn văn bằng của người khác để đưa nhà
gái sát hạch lúc cầu hôn, hoặc giả làm nhà tòng sự (3) suốt mấy tháng để nhà
gái nếu có dò la vẫn thấy sớm vác ô đi tối vác về...
|
(1) Thích hướng lên trên, tức hiếu danh, bon
chen...
(2) Tự đề tên họ chức tước ở một góc câu đối.
(3) Làm công chức.
3- Học vấn một đằng, công nghệ một nẻo
Phan Kế Bính
(“Việt Nam
phong tục,” năm 1915)
Tính người
mình không biết quý trọng công nghệ, người làm nghề tựa hồ như bất đắc dĩ không
học được làm quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề
thôi. Mà làm nghề thì không cần gì tinh
xảo chỉ cốt bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn. Công nghệ suy nhược lại còn là vì người có
học thức không chịu làm, người chịu làm thì lại là người không có học thức,
chẳng qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ không nghĩ được cách thức nào mới.
Ít năm nay, có
trường bách công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít
nhiều và cũng đã có người sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi
buôn bán. Song cái tính khinh đường công
nghệ thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có song vẫn tự
coi mình là đê tiện, phải mượn cái phẩm ông Hàn ông Bá mới là vẻ vang.
|
4- Khéo tay mà trí không khôn
Phạm Quỳnh
(“Pháp du hành
trình nhật ký,” năm 1922)
Xét ra ở nước
Nam ta mới có các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang
sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có gì sánh được với các nước, nhưng ngay trong mỹ
nghệ cũng chưa có kỷ luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ các kiểu cách,
các thời đại, các lề lối, các phương pháp, thợ thuyền phần nhiều là những người
vô học, phi quen tay phóng lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài,
thành ra tay có khéo mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được
tinh thần cốt cách cũ , tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mời, nói tóm
lại là không có trí sáng khởi (1) khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề một cái thể
thức trang nghiêm mà đặc biệt. Cho nên
các nhà nghề ta không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho có cái
trí khôn nữa.
Nay muốn gây
lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời
không gì bằng lập ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong
nước, chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến
đấy mà xem, mà học cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao,
rồi hoặc trông đấy mà giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biển
đổi dần.
|
(1) Bắt đầu dựng lên, ngày nay hay viết là
“sáng tạo.”
(2) Quan hệ của những cái liên tiếp nhau.
Cũng nghĩa như hệ thống.
(3) Duyên (có khi đọc diên) ở đây là thủ cựu,
cách là đổi mới. “Duyên cách”: Tình hình trong một khu vực nào đó cái cũ thế
nào, cái mới ra sao.
5- Thiếu tinh thần cầu học
Nguyễn Văn Tố
(theo Lê
Thanh, “Cuộc phỏng vấn các nhà văn,” năm 1943)
Phải nhận rằng
người mình không ham học mấy. Thí dụ như
người đỗ bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không chịu học
thêm. Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để cho mình tạm
đủ sức mà học lấy, khi ở trường ra mắt là chỗ khởi hành, mình lại tưởng đến nơi
rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên
anh em thanh niên học rõ nhiều, vừa đọc văn Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần
đông người ta mà viết văn ta còn sai nhiều.
|
6- Mô phỏng đã thành thói quen
Hoa Bằng
(“Phải có cái
gì để làm đặc tính của người mình chứ.” Tri tân, năm 1941)
Hết thảy mọi
phương diện, chẳng hạn, từ văn học tới nghệ thuật - chúng ta đều ăn của người,
nhưng đã biết hóa để làm của riêng của mình chưa?
Bình tĩnh mà
xét, từ hình thức đến tinh thần ta nay cũng có một đôi phần tiến. Nhưng cái óc mô phỏng hay còn rõ sờ sờ trung
hết thảy mọi mặt.
"Chúng ta
phải làm con cháu của cổ nhân chứ không nên làm nô lệ của cổ nhân.” Đối với cổ nhân ta nay còn phải dè dặt thay,
huống chi đối với gió bốn phương, há lại nên bạ chiều nào che chiều ấy?!
|
7- Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Nguyễn Văn
Huyên
(“Văn minh
Việt Nam,” năm 1944)
Sự đơn điệu tẻ
nhạt của cảnh sắc thiên nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của
các nhóm người, sự phân chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiển
người Việt thiên về u buồn và sầu não.
Cá nhân bị
giam hãm một cách chặt chẽ và giả tạo trong những khuôn khổ cứng ngắc như gia
đình và làng mạc đến nỗi họ không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một
mình. Vì thế khi môi trường chung quanh
không còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy định,
người ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực trí tuệ
tiêu tán.
Nền văn hóa
vốn thấm nhuần lòng từ bi Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá
nhân. Rồi quan niệm siêu hình của đạo Lão khiển nhiều tác giả thiên về một cái
nhìn bi quan sâu sắc và một sự mỉa mai chua chát. Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài
ngâm cũng như các tác phẩm của Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu… chỉ là những tiếng vọng của nỗi đau nhân
loại. Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy cùng những đề tài giống nhau
về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ảnh tất cả sự dồn nén tinh thần của
cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của một kiếp người bấp bênh, một
cuộc sống chật hẹp.
|
8- Một nền nghệ thuật thiếu tư tưởng
Hoài Thanh
(“Có một nền
văn hóa Việt Nam,” năm 1946)
Trong lịch sử
ta biết bao thế hệ nhà nho kế tiếp nhau mài miệt trong sách vở của thánh hiền
mà nào có sáng tác được gì đâu.
Ta không có
một nền quốc học nếu quốc học là học thuật riêng của nước. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử ta cơ hồ không
có sáng tác gì về học thuật. Ấy cũng vì
ta kém óc trừu tượng khái quát, điều kiện căn bản để phát minh về tư tưởng.
Người phương
Tây rất ngạc nhiên thấy ta hôm qua chỉ biết có “Tứ thư Ngũ kinh” mà hôm nay
bỗng tin theo những thuyết rất mới mẻ, rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ
không biết rằng học thuật tư tưởng không phải là những căn bản tinh thần của
dân tộc ta. Tư tưởng nào có lợi cho đời
sống của dân tộc thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư tưởng ấy trở
nên có hại cho đời sống chung, ta sẽ trút bỏ dễ dàng không tiếc hối.
|
9- Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược
Phan Kế Bính
(“Việt Nam
phong tục,” năm 1915)
Văn chương gọt
từng tiếng khác nào như người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cài
giò kia hãm cho thấp trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để
chưa mấy ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo
nhỏ nhặt làm mất đi cái khí mạnh, gọi là "nhu nhược chi văn chương!"
|
10- Xu thế trang sức quá nặng
Đào Duy Anh
(“Việt Nam văn
hóa sử cương,” năm 1938)
Nghệ thuật
Việt Nam thường bị bó buộc trong lề lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa, cho nên nhà nghệ tài giỏi mấy cũng
chỉ phỏng lại những hình thức có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà sáng
kiến những cách thức mới.
Nhà nghệ thuật
Việt Nam không phải là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải
người quan sát và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỗi bắt chước những kiểu
mẫu sẵn. Có muốn hơn người thì họ chỉ
cốt ra tay cho khéo cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật dụng công, chỉ
cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy.
Tính chất đặc
biệt của nghệ thuật Việt Nam là tính trang sức.
Nó thiếu hẳn hoạt khí, vì cách biển hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi
hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm vi thái độ chế kiểu.
|
11- Lối tính
toán thiển cận
Lương Dũ Thúc
(“Nông cổ mím
đàm,” năm 1901)
(“Việt Nam
phong tục,” năm 1915)
Cách đại
thương (1) là có gan làm giàu. Coi người ta phí (2) là bao nhiêu tiền bạc mà
không sợ mất, là vì người ta tiên liệu đại lợi, kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy
trước mắt có lợi mới chịu làm. Nếu đem
đại thương mà sánh với bán hàng bông (3) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước
mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng thấy, chớ như đại
thương thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít, cái lợi mà
lâu thấy thì thật lớn lắm.
Người nước nào
đều có ngay gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm
rồi thì quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
|
(1) Buôn bán lớn.
(2) Bỏ tiền của ra sử dụng.
(3) Bán hoa quả bông trái.
12- Mê tín gây nhiều lãng phí
Phan Kế Bính
(“Việt Nam
phong tục,” năm 1915)
Lễ kỳ (1) an
chủ ý là trừ khử ma quỷ cho dân xã bình an. Ta lại tin theo Phật thuyết (2), bày ra vàng mã, nào mũ Ngọc Hoàng, nào
tượng Minh Vương, nào âm quan quỷ tốt, chiến khí binh tiền được việc cũng cam,
nhưng nào có được việc gì đâu, rút lại chỉ tại ta tin nhảm.
|
(1) Kỳ đây là cầu.
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang) Cụ Phan Kế Bính có lẽ
hiểu lầm (!?) Phật thuyết của Phật giáo về vấn đề đốt vàng mã, mũ Ngọc Hoàng
v..v... Đốt vàng mã không phải là sản phẩm của Phật giáo mà là sản phẩm của mấy
ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt Nam dưới thời Việt Nam bị đô hộ. Một số
các thầy "cúng," những người nầy không phải là các Sư Tăng đạo Phật,
vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều người Việt nẫn còn tin!
13- Không ai chuyên nhất việc gì
Tân Việt (*)
(“Mỗi người
một việc” - Đông Pháp thời báo, năm 1928)
Các nước phú
cường, người nào làm việc gì. Nhà khoa
học lo cả đời phát minh, người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì
không thế. Một người làm năm bảy việc,
trong khi làm bầu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình,
lại có mở một cửa hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm
chính trị.
Người ngoại
quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức
chuyên nhất, không có tính nhẫn nại.
|
(*) Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi
ký chung trên Đông Pháp thời báo 1928 (theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng (văn
phong) thì người viết ở đây có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?)
14- Dễ dãi trong tiếp nhận nên hỏng việc
Phạm Quỳnh
(“Giải nghĩa
đồng hóa,” Nam Phong, năm 1931)
Người An Nam
vốn có cái thiên tính dễ đồng hóa (1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái
khác lạ với mình, dễ đem những điều hay điều dở của người mà hóa (2) làm của
mình, nhưng cái tài đồng hóa đó thường thường chỉ là cái khóe tinh (3), biết
xem xét và bắt chước của người, chỉ phảng phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt
được đến chỗ căn để (4) chỗ tinh túy.
Tỷ như thợ An
Nam thì phóng chép tài lắm, những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến
đâu, họ cũng bắt chước được như hệt cả.
Học trò ta học
rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được những cái
người ta dạy mình.
Một người trí
não khô cạn hay là vì không được tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống mà
thành ra khó cạn đi - một người như thế không thể không thể nào hiểu thấu được
cái tinh thần của Tây phương. Có đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ
bắt chước được cái hình thức.
Cái cách đồng
hóa dễ dàng thô thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể cho
là cái tính xấu được. Chưa chắc cái học
tiếp thu được dễ dàng như vậy đã làm cho óc được khôn ra, người được chín ra
chút nào.
Đồng hóa một
cách cấp tốc, một cách vô độ há chẳng phải là hại hơn lợi?
|
(1) Tiếp nhận.
(2) Biến cải.
(3) Ngón nghề, mánh lới.
(4) Gốc rễ, cơ bản.
15- Quá tin ở những điều viển vông
Phan Bội Châu
(“Cao đẳng
quốc dân,” năm 1928)
Mê tín sinh ra
những việc nực cười. Ngày giờ nào cũng là trời bầy định mà bảo rằng có ngày dữ
ngày lành, núi sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu, vì
nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng có ông thần táo, vì che mưa gió mới có nhà mà bảo
rằng có ông thần nhà, cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử,
trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy
những cửa nát nhà tan, của mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy
nhiêu...
|
16- Tầm thường hóa những giáo lý sâu xa
Phan Kế Bính
(“Việt Nam
phong tục,” năm 1915)
Phật giáo là
một tôn giáo riêng, cũng có lý tưởng. Mà lời thiện ác báo ứng cũng đủ khuyên
răn người. Nhưng hiềm ta không cứu (1) đến nguyên lý mà chỉ tin những lời trần
hủ (2), sùng tín cái vỏ xác ngoài còn cái lý cao xa của người ta, không mấy
người nghĩ đến. Đã không ích gì, mà làm
hại của cải cũng chỉ bởi lòng tin sai vậy.
|
(1) Xét đoán, tra hỏi.
(2) Cũ kỹ, không hợp thời.
17- Vớ được sách nào theo sách ấy
Nguyễn Văn
Vĩnh
(“Hương Sơn
hành trình,” Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Có kẻ sáng
ngày ra vào phủ thờ bà cô, ông mãnh nào, chiều lại vào làm tôi con ông Trần
Hưng Đạo là thần hay trị những tà ma, những ông hoàng bà chúa. Đến sáng hôm sau
cũng người ấy có thể chay lòng thực dạ mà nghe giảng những lời đạo đức của ông
Khổng, ông này không có dạy phải tin thờ ông thần ông thánh nào cả hoặc là đi
lễ Phật là một đạo trái hẳn với mọi ma thiêng thần dữ.
Nói rút lại,
thì người An Nam ta tin bậy hình như theo lý tưởng này: Dẫu không có mà tin
cũng chẳng hề chi, ngộ có mà không tin, có lẽ hại đến mình. Cho nên cứ tin liều
đi.
Người ta theo
lý tưởng ấy cho nên sinh ra những đạo không có tôn chỉ, quy tắc pháp ở trong
tay mấy anh sư mô, thầy cúng, ngày nay làm theo sách này, ngày mai bịa ra sách
khác, có ngược nhau cũng chẳng ai bảo sao. Mà người tin, người tộc trưởng,
người làm lễ tang lễ hỷ, cũng cứ tùy bện mà theo, vớ được sách nào theo sách
ấy, tùy cách lịch sự tùy gia tư (1) mà theo lễ này hay lễ kia, chứ không theo
tôn chỉ nào cả.
Còn như sự đi
chùa Hương và các chùa chiền khác, nhiều người cho như một cái tật của các cụ
già và của người đàn bà. Cũng có kẻ bảo là việc hay, cũng có người cho là việc
dở. Hay là vì các bà các cô đi lễ bái như thể nó cũng thêm được cái dáng đạo
đức, cái nếp nhà ra một chút. Dở là vì các
bà ganh nhau tốn kém và mấy ông sư ông vả lại cũng chưa quên hẳn sự đời.
|
(1) Của cải, tài sản trong gia đình.
18- Đời sống tôn giáo hời hợt
Nguyễn Văn
Huyên
(“Hương Sơn
hành trình,” Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Mặc dù sự có
mặt của vô số ma quỷ và thần linh, người Việt vẫn có một đời sống tôn giáo
không lấy gì làm sâu sắc cho lắm. Người
ta chỉ có những niềm tin mơ hồ về linh hồn, về sự sống ở thế giới bên kia, về
các thần. Một số lớn thần được định tính không rõ ràng và thường thường là phi
nhân cách. Không có sự giáo dục tôn giáo cụ thể, cũng như không có sự tuyên
truyền tôn giáo có tổ chức.
Mọi người chỉ
cầu tới tôn giáo do nhu cầu vật chất. Ở
một số trường hợp, người ta tìm kiếm một kết quả trước mắt như khỏi bệnh, có
con, có tiền tài. Người ta cũng cầu thần
để cho đời sống một người đã khuất ở thế giới bên kia được dễ dàng, để thi đỗ,
để nhanh chóng trong một việc, để đi xa một chuyển được bình yên... Thường
thường trong ý thức dân gian, tôn giáo được quy lại chỉ còn là một lô thực hành
thờ cúng đã trở thành bắt buộc. Lễ nghi
là tất cả, nó đôi khi bao gồm những nghi thức rắc rối hoặc núp dưới một hình
thức long trọng có tính cách bề ngoài.
|
19- Từ ảo tưởng tới thoái hoá
Phan Khôi
(Báo Thần
chung, năm 1929)
Mấy trăm năm
nay, thuyết minh đức tân dân (1) làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong
thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào
hai chữ tân dân đó mà ôm những hy vọng hăo huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau
sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ
trạch dân, làm nên công nghiệp (2) ghi vào thanh sử (3) đến đời đời, không ngờ
thi không đậu hay đậu mà không làm ra trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu
điều ngă ngửa người ra, tay chân xuôi lơ và bủn rủn.
Còn người khác
đắc thời, thi đậu ra làm quan thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đă có cái công phu
minh đức, nghĩa là mình đă học giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở
hành, chớ có lo chi.
Bởi vậy nên có
những ông thượng thư bộ hộ mà làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh
mà cả đời chẳng biết đến cái lưng con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà
rồi ông quan nào cũng như thượng đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng (!)
|
(1) Trích từ câu đầu tiên của sách Đại học,
có nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) Cũng tức là sự nghiệp.
(3) Thanh sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ
tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi là thanh sử.
20- Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò
Phạm Quỳnh
(“Bàn về quốc
học,” Nam phong, 1931)
Nước ta vẫn có
tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò
chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn
không khỏi cái tư cách làm học trò!
Ấy cái tình
trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi
học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà
thôi… chưa mấy ai là rơ rệt có cái tư cách – đừng nói đến tư cách nữa, hăy nói
có cái hy vọng mà thôi – muốn độc lập trong cơi tư tưởng cả.
Như vậy thì ra
giống ta chung kiếp (1) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại
thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
|
(1) Suốt đời.
21- Không có can đảm là mình
Nguyễn Duy
Thanh
(“Muốn cho
tiếng An Nam giàu,” báo Phụ nữ tân văn, 1929)
Ông Dorgelès
trong quyển “Con đường cái quan” có nói đến thói hay bắt chước của người mình.
Đại khái ông nói rằng: “Ngày xưa người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam
đều nhất nhất theo Tàu cả. Nay người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm
năm, mà nhà cửa đă theo Tây thời rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô
khan, hình như phải dịch tiếng mình ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng
giống thằn lằn hễ bám vào cây nào thì lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam
này thời không thế, thằn lằn không đổi màu da mà chính cây đổi màu da để lấy
màu da thằn lằn.”
Câu nói đau
đớn thay mà xét người ta nói cũng phải. …Người viết văn phải có can đảm mà dịch
những chữ nước ngoài ra. Mở đầu có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được.
Cụ Nguyễn Du không can đảm sao dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ
thiết diện ra chữ mặt sắt (1)… Mà cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ:
Người Tàu nói chữ vân cẩu tang thương có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không.
Ấy thế mà giá mình nói “Bức tranh mây chó vẽ người bể dâu” (2) tất phần nhiều
người cho là mách qué! Người Tàu trước kia làm gì có những tiếng cộng hòa, cách
mạng, cá nhân, vật lý học, kỷ hà học (3)… Vì sốt sắng làm cho tiếng nước nhà
giàu thêm lên, nên họ không ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy. Người
mình thì không thế. Muốn dịch một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng nước nhà mà
không dịch nổi, thì cứ việc mở ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đă sẵn sàng cả
rồi. Dù người Tàu có dịch sai chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai
biết đến đó mà lo.
|
(1) Hai câu nguyên văn trong Truyện Kiều:
“Trải qua một cuộc bể dâu” và “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vi tính.”
(2) Một câu trong “Cung oán ngâm khúc.” “Bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương.”
(3) Tức hình học.
(4) Tức từ điển.
22- Thạo sử người hơn sử mình
Hoàng Cao Khải
(“Việt sử yếu,”
1914)
Sĩ tử khắp
nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và ṇi giống dân
ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên
Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không
biết các bề tôi Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ
chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề
hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ – phát nguyên từ nơi
nào. Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang
tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả. Lại c̣òn lấy kỹ nghệ nước
ngoài làm ưa thích. Đă không chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ,
mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng
tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)… chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về
dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí năo của
dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ
chuyên trọng Bắc sứ (3) mà thôi.
|
(1) Các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới
xin…
(2) Hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn.
(3) Tức lịch sử Trung Hoa.
23- Đầu óc vọng ngoại và hay kỳ thị (**)
Luôn luôn có
đầu óc vọng ngoại, nghĩa là tôn sùng hàng (ngoại) hóa và người ngoại quốc –
những gì đến từ bên ngoài Việt Nam đều tốt đẹp hơn ở nội địa. Có lẽ vì dân trí
mình còn thấp kém lại bị ngoại quốc đô hộ quá lâu - trên ngàn năm. Đã đành là
đối với người ngoại quốc thì e sợ, nhát nhúa, nhưng đối với nhau thì lại thích
hống hách và kỳ thị.
Người mình có
đủ mọi kiểu kỳ thị: Tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Hoà hảo, Cao đài, Tin lành
v.v..); Địa phương (nơi, miền); Sinh trưởng (Nam, Trung, Bắc); Sắc dân (Kinh,
Thượng, Cao miên, Chàm, Trung hoa…); Bằng cấp và Xuất xứ được đào tạo giáo dục
(truờng Việt, trường Mỹ, truờng Tây, trường Tầu, trường Liên xô…)
Sang sống tị
nạn ở hải ngoại, sau khi ăn nên làm ra, cũng thấy bắt đầu dở mòi kỳ thị người
thiểu số, da mầu bản xứ (da đen và da nâu / Mễ) nhiều khi tính kỳ thị của người
mình còn hơn cả người Da trắng chính gốc bản địa nữa (!)
|
24- Vô kỷ luật (**)
Bất cứ ở đâu
cũng có thể lấy thịt đè người, to tiếng, chen lấn vô trật tự, khinh thường
người khác có vẻ nhỏ bé, nhã nhặn hơn mặc dù chưa (hoặc chẳng cần) hiểu rõ họ
là ai? Ở những nơi như chợ búa, hàng
quán… Những nơi cần phải được xếp hàng theo thứ tự, tuần tự thì phe ta cứ tự
tiện bất chấp luật lệ, lẽ phải tự nhiên (“common senses”), cứ tranh dành thế
nào để rồi chen lấn, xô đẩy xếp thành một hàng ngang thôi mới vừa ý – hàng
ngang có nghĩa rằng mọi người đều là số 1, không ai chịu thua kém ai? Thiệt tình, dân mình thiếu hẳn cái “văn hóa
xếp hàng!” – Người nào hung bạo nhất, to tiếng nhất thì người đó cũng tự cho
mình có cái quyền phải được phục vụ trước (?)
Hay thật!
Sau biến cố
tháng 4 năm 1975, người Việt Nam di tản đi tị nạn cộng sản khắp thế giới, sau
khi đã được định cư ở những nước văn minh Âu Mỹ thì Cộng Đồng Việt Nam bị những
sắc dân bản xứ và thiểu số khác coi thường chỉ vì cái "thói quen cố hữu
4000 năm chen lấn" này.
Vấn đề “vô kỷ
luật,” thiếu lịch sự tối thiểu còn được thấy ngay trong các dịp đi dự tiệc
cưới, họp mặt, lễ lạc, giờ hẹn phòng mạch bác sĩ… Cứ tự nhiên đi trễ cả tiếng đồng hồ sau giờ
ấn định làm các quan khách, các thân hữu, người phục vụ phải chờ đợi trông
ngóng mệt mỏi. Sự trễ nãi lạc hậu này đã
trở thành một hủ tục gắn liền với người Việt Nam. Đến nỗi tại hải ngoại có câu vè châm biếm:
"Không ăn đậu (“bean”) không phải Mễ,
Không đi trễ không phải Việt Nam…"
|
Trần Văn Giang
(Ghi lại và viết thêm 2 mục)
Chú thích:
(**) TVG viết thêm 2 tiểu mục số 23 và 24.
No comments:
Post a Comment