Bắc Kinh và Washington : Những điều bất ngờ
 Nguyên tác :  Conn Hallinan ( Eurasia Review )
Dịch giả : Đan Thanh
Dịch giả : Đan Thanh
Đọc các tít báo đưa về quan hệ Mỹ – Trung có thể khiến người ta đi đến kết luận là căng thẳng hiện nay giữa hai nước liên quan đến những khác biệt về chính trị thì ít mà liên quan đến thuốc thang thì nhiều: Con hổ Trung Quốc "giơ móng vuốt" còn Mỹ thì "quá mềm mỏng" trong đường lối ứng xử với Trung Quốc. Cứ như thể các nhà báo đang ngầm đề xuất việc dùng thuốc (có lẽ một liều Thorazine-thuốc an thần-chăng?) thay vì dùng ngoại giao làm giải pháp.
Có tồn tại những khác biệt thật sự và một cơ sở chung, nhưng sàng lọc chúng ra là một việc mệt mỏi vì phải phân tích sâu. Liệu những căng thẳng đó có phải là vì Bắc Kinh ngày càng hung hãn hơn và đang bắt đầu khẳng định mình trong một thế giới vốn trước kia do Mỹ thống trị ? Hay là vì Washington đang bao vây Trung Quốc bằng một vòng vây đồng minh và các căn cứ quân sự, nhằm ngăn chặn sự nổi lên của một đối thủ cạnh tranh quốc tế đầy hứa hẹn?
Nhìn  trên bề mặt, sự đối kháng này giống như cuộc tranh giành vai trò đế  quốc giữa Anh và Đức vào cuối thế kỷ 19. Nhưng thế giới vào năm 2011 rất  khác với năm 1914. Thế giới bây giờ được kết nối chặt chẽ hơn nhiều,  phụ thuộc lẫn nhau hơn nhiều, và hậu quả sinh ra từ đối đầu cũng nguy  hiểm hơn nhiều. Giờ đây cứ khi nào một bên nào đó viện đến quân sự, căng  thẳng lập tức gia tăng, mà tìm kiếm giải pháp thì khó khăn.
Phụ thuộc về kinh tế
Quan hệ đối tác giữa Bắc Kinh và Washington  được xây dựng dựa trên tiền và thương mại. Hiện tại Trung Quốc nắm giữ  gần một nghìn tỷ USD trái phiếu kho bạc Mỹ. Mậu dịch hàng năm giữa hai  nước đạt hơn 400 tỷ USD, tương đương kim ngạch mua bán của Trung Quốc  với toàn thể EU. Cả hai nền kinh tế đều phụ thuộc lẫn nhau; vấn đề của  một nước nói chung cũng là vấn đề của nước kia.
Lần  lượt là nền kinh tế đứng thứ nhất và thứ hai trên thế giới, Mỹ và Trung  Quốc cạnh tranh để tìm kiếm thị phần và nguyên liệu thô.
Trung  Quốc hiện là nước tiêu thụ năng lượng thứ hai thế giới. Từ nay tới năm  2015, quá trình bùng nổ công nghiệp hóa ở nước này sẽ cần đến 11,3 triệu  thùng dầu một ngày. Do Trung Quốc chỉ tự sản xuất 3,7 triệu thùng dầu  một ngày, nên chính sách đối ngoại của họ chủ yếu nhằm đảm bảo một nguồn  cung cấp ổn định. Làm sao nhiên liệu ấy đến được Trung Quốc, ai là nhà  cung cấp, sẽ là việc phải tính.
Ba nước cung cấp dầu chủ yếu cho Trung Quốc là Arabie Saoudite, Angola và Iran.  Điều đó có nghĩa là 80% lượng cung cấp nhiên liệu của Trung Quốc được  vận chuyển bằng đường biển qua hai điểm nút: eo biển Hormuz và eo biển  Malacca. Cả hai nơi đều do hải quân Mỹ kiểm soát.
Bắc  Kinh đã áp dụng một chiến lược hai hướng nhằm giải quyết vấn đề an ninh  năng lượng. Thứ nhất, các nhà cung cấp năng lượng Trung Quốc ngày càng  tăng cường sử dụng hệ thống đường ống chạy từ Nga và Trung Á. Cả tuyến  đường ống Turmenistan-Tân Cương và Đông Siberia-Thái Bình Dương, xuất  phát từ Nga, đều đang vận hành.
Thứ  hai, Trung Quốc củng cố hải quân và thiết lập một "chuỗi ngọc trai"  những hải cảng thân thiện với Trung Quốc ở Myanmar, Sri Lanka, và  Gwadar, Pakistan. Cảng Gwadar có tiềm năng trở thành điểm xuất phát của  một tuyến đường ống Iran-Ấn Độ-Pakistan-Trung Hoa. Iran và Pakistan  đã đồng ý ký kết. Ấn Độ và Trung Quốc đã thể hiện sự quan tâm. Nếu Mỹ  gây áp lực thành công buộc Ấn Độ phải rút lui thì Trung Quốc sẽ nhảy vào  rót tiền đầu tư.
Trung Quốc củng cố quân đội
Việc  Trung Quốc củng cố quân đội phản ánh nỗi lo lắng của họ về hoạt động  bảo vệ tuyến đường biển và quyết tâm không lặp lại lịch sử gần đây. Hồi  năm 1996, chính quyền Clinton  đã gửi hai tốp hàng không mẫu hạm chiến đấu đến eo biển Đài Loan trong  một giai đoạn căng thẳng giữa Đài Loan và Đại lục. Do Trung Quốc khi ấy  không có hàng không mẫu hạm, cũng không có nhiều vũ khí để làm một cuộc  biểu dương quyền lực đáng kể, nên Bắc Kinh đã phải rút lui. Người Trung  Quốc chưa quên nỗi nhục đó.
Hải  quân Trung Quốc không đem lại một thách thức nghiêm trọng nào đối với  Mỹ. Tàu sân bay duy nhất của họ do Nga thiết kế cách đây đã hàng thập  kỷ, và chỉ bằng nửa kích thước của một tàu sân bay hạng Nimitz (mà hải  quân Mỹ sở hữu tới 10 chiếc).
Trung  Quốc có một tên lửa đạn đạo mới với nhiều cải tiến, mà gần đây Đô đốc  hải quân Mỹ Robert Willard tuyên bố đó là một mối đe dọa lớn đối với các  tàu khu trục của Mỹ. Tuy nhiên tên lửa này chưa hoạt động, và khả năng  của nó đến đâu thì chưa biết.
Nhà  phân tích quân sự người Trung Quốc Liu Mingfu nói: "Trung Quốc củng cố  quân đội không phải để tấn công Mỹ, mà để đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ  không bị Mỹ tấn công".
Những cử chỉ nghênh ngáo
Việc  Trung Quốc nỗ lực đẩy Mỹ ra khỏi khu vực mà Trung Quốc coi là "cốt lõi"  cũng đã đặt họ vào xung đột với một số quốc gia phía nam châu Á, vốn có  những yêu sách về chủ quyền đảo trên Biển Đông (Biển Nam Trung Hoa)  tương tự Trung Quốc. Vài xung đột trong số đó xuất phát từ chủ trương  "đánh lẻ" rất mạnh mẽ mà Bắc Kinh theo đuổi. Bắc Kinh yêu cầu mỗi nước  có liên quan chỉ được đàm phán với Trung Quốc mà thôi. Tháng 7 năm  ngoái, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì nói năng gần như  một tên đế quốc khi tuyên bố thái độ phản đối: "Trung Quốc là nước lớn,  các quốc gia khác là nước nhỏ, đó đơn giản là sự thật".
Tuyên  bố vỗ mặt đó đã tạo cho Washington cơ hội để mở rộng sự ủng hộ đến các  nước trong khu vực, bao gồm cả Việt Nam, một nước đã rất hoan nghênh tàu  hải quân Mỹ trở lại Vịnh Cam Ranh và đã tiến hành các cuộc tập trận  chung với kẻ thù cũ của họ.
Bắc  Kinh coi các nỗ lực của Mỹ nhằm "hòa giải" tranh chấp tại khu vực "cốt  lõi" của Trung Quốc là một phần của một chiến dịch bao vây Trung Quốc  bằng các đồng minh và căn cứ quân sự thù địch. Mỹ hiện có hơn 100 căn cứ  ở Nhật Bản, 85 cơ sở ở Hàn Quốc, một ở Philippines, một ở Guam, thậm  chí một vài căn cứ ở Trung Á.
Simon  Tay, chủ tịch Viện Nghiên cứu Quốc tế Singapore, nói: "Nếu là một nhà  tư duy chiến lược ở Trung Quốc thì không cần phải là một nhà lý luận  hoang tưởng, bạn đã nghĩ ngay là Mỹ đang cố vận động châu Á chống lại  Trung Quốc".
Trong  vụ Đài Loan năm 1996 và trong các tranh chấp chủ quyền gần đây trên  Biển Đông, những nguy cơ về quân sự đã mang lại kết quả ngược với mong  đợi của cả Trung Quốc và  Mỹ. Chính sách ngoại giao pháo hạm (đe dọa  dùng vũ lực – ND) của chính quyền Clinton đã châm ngòi cho chương trình  củng cố hải quân của Trung Quốc, mà hiện giờ là một thách thức trong khu  vực đối với Mỹ. Còn chính sách hung hăng của Trung Quốc đối với các  láng giềng nam châu Á của họ tạo cho Washington một lối vào, trong khi  lại là bước lùi về ngoại giao của Trung Quốc.
Cũng  vậy, thái độ nóng nảy của Trung Quốc đối với Ấn Độ về vấn đề biên giới  chung khiến Mỹ có ảnh hưởng lớn hơn ở New Delhi. Xung đột gần đây giữa  Trung Quốc và Nhật Bản về quần đảo Senkaku-Diaoyus (Điếu Ngư) gây tranh  cãi đã đẩy Tokyo xích lại gần Washington.
Giới hạn của sức mạnh quân sự
Những  mối đe dọa về quân sự, kể cả kín đáo, nói chung thường đi tới kết cục  là nổ tung trên đầu người tạo ra chúng. Phần nào chúng phản ánh những  khác biệt giữa thế giới năm 1914 và thế giới ngày nay. Hồi năm 1914,  những cú mạo hiểm của các nước đế quốc nói chung đều có lợi cho họ. Ngày  nay khái niệm "mạo hiểm" gần như đồng nghĩa với khái niệm "hăm hở đi  quá xa".
Mỹ  có lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Nhưng việc họ lưu trú ở  Iraq là một thảm họa mang tính chiến lược, và họ cũng đã sa lầy trong  cuộc chiến không thể thắng ở Afghanistan.  Họ có thể chiến thắng trong bất kỳ cuộc giao tranh theo kiểu truyền  thống nào (nguyên văn: conventional battle, nghĩa là chiến tranh quy  ước, không sử dụng vũ khí hạt nhân, sinh học, hóa học, không sử dụng  chiến thuật du kích – ND) trên hành tinh này, nhưng càng ngày càng khó  thắng trong chiến tranh nói chung. Họ có thể san phẳng Iran, nhưng liệu  có ai tin rằng người Iran  sẽ đầu hàng không? Khả năng giá dầu tăng vọt – như một hệ quả – làm  lung lay các nền kinh tế trên toàn thế giới, sẽ càng lớn hơn.
Ngược  lại, Trung Quốc gần đây đã hủy bỏ một thỏa thuận mua bán dầu với Iraq  và khoáng sản với Afghanistan, mà chẳng mất một người lính nào. Họ cũng  đã đầu tư 120 tỷ USD vào ngành công nghiệp năng lượng của Iran và trở  thành đối tác thương mại số 1 của Tehran.
Trong  khi Mỹ đang xây dựng căn cứ quân sự mới ở Trung Á và tổ chức Hạm đội  Bốn, đe dọa gây chiến ở châu Mỹ Latin, thì Trung Quốc với vai trò đối  tác thương mại lớn của châu lục này đã làm vị thế của Mỹ nghiêng ngả.
Hội   nghị thượng đỉnh Mỹ-Trung gần đây diễn ra êm ả, thách thức những luận  điệu cho rằng hai người khổng lồ này đang bước vào một cuộc đối đầu. Tuy  nhiên, mặc dù Washington và Bắc Kinh có nhiều điều để đồng ý với nhau  và cùng rón rén đi qua những điểm họ bất đồng, nhưng căng thẳng vẫn còn  đó.
Cả  hai bên đều không được phép để quân đội quyết định tiến trình quan hệ  giữa hai nước. Dù nói gì đi chăng nữa thì mọi vị đô đốc đều muốn có tàu  mới và mọi viên tướng đều muốn có tên lửa mới. Việc của quân đội là đánh  thắng – và điều ấy đòi hỏi nhiều thứ bất ngờ.
Nhưng ngày nay những thứ bất ngờ ngày càng đắt đỏ hơn và chắc chắn là sẽ gây tổn thất hơn là giành được vòng nguyệt quế.
 
Conn Hallinan là người phụ trách chuyên mục trên  tờ Foreign Policy In Focus.
 
 
No comments:
Post a Comment