Tại sao vũ khí hạt nhân của Trung Cộng lại làm người ta lo lắng?
Nguyên tác : Michael Richardson ( The Japan Times online )Dịch giả : Phạm Nguyên Trường
SINGAPORE — Theo đánh giá mới nhất của các nhà phân tích Tây Phương thì Trung Cộng hiện có 240 đầu đạn hạt nhân, trong đó 175 chiếc đang ở trong tình trạng sẵn sàng, 65 chiếc còn lại là lực lượng dự bị hoặc chờ được tháo dỡ vì bị coi là quá cũ, không thể sử dụng được.
Số  lượng như thế là nhỏ nếu so với Mỹ và Nga. Mỹ tuyên bố rằng  họ có 5.113 đầu đạn hạt nhân trong tình trạng sẵn sàng. Người  ta cho rằng Nga cũng có số lượng tương đương, nước này cũng nói  rằng họ sẽ theo gương Mỹ và sẽ công bố toàn bộ số lượng sau  khi hiệp ước mới về giải trừ vũ khí chiến lược với Mỹ được  thông qua.
 
Mấy  năm trước Pháp nói rằng họ có ít hơn 300 đầu đạn. Anh, quốc  gia cuối cùng trong 5 cường quốc hạt nhân, cách đây một thời  gian ngắn nói rằng họ có 225 đầu đạn hạt nhân, trong đó 160  chiếc đã được triển khai.
Kho  vũ khí của Trung Cộng không chỉ tương đối nhỏ mà người ta tin  rằng trong những điều kiện bình thường chúng vẫn nằm trong kho  chứ không được triển khai trên những hệ thống phóng – chủ yếu  là các loại hỏa tiển.
Ngoài  ra, Bắc Kinh đã nhiều lần nói rằng họ sẽ không phải là người  sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên, nếu xung đột xảy ra. Theo  người ta biết thì chỉ có hai nước châu Á khác là Ấn Độ và  Pakistan (đồng minh của Trung Cộng) là có vũ khí hạt nhân, các  nước không có vũ khí hạt nhân ở châu Á dường như có thể ngủ  ngon.
Nhưng   mọi chuyện không đơn giản như thế. Khác với bốn cường quốc  hạt nhân tham gia hiệp ước cấm phổ biến vũ khí nguyên tử, Trung  Cộng chưa công bố kho hạt nhân của họ và theo số liệu của bộ  quốc phòng Mỹ thì trong 5 năm qua nước này đã tăng số lượng  các hệ thống có khả năng mang đầu đạn hạt nhân lên khoảng 25%.
Trung Cộng có khoảng 130 hỏa tiển địa-không đặt trên mặt đất, có thể mang theo đầu đạn hạt nhân. Chúng lại được chia làm sáu loại, tùy thuộc vào cự li và trọng tải.
Trung Cộng có khoảng 130 hỏa tiển địa-không đặt trên mặt đất, có thể mang theo đầu đạn hạt nhân. Chúng lại được chia làm sáu loại, tùy thuộc vào cự li và trọng tải.
Những  Hỏa tiển có tầm bắn từ 7.200 đến 13.000 Km hay hơn là nhắm  vào Mỹ và Nga. Nhưng có khả năng là Trung Cộng có không đến 50  Hỏa tiển loại này và chúng cũng chỉ mang được từng ấy đầu đạn  hạt nhân mà thôi. Trong tương lai, một số Hỏa tiển loại này có  thể mang tới ba đầu đạn hạt nhân và mỗi đầu đạn có thể bắn  vào một mục tiêu riêng biệt chứ không chỉ mang một đầu đạn như  hiện nay nữa.
Nhưng  phần lớn Hỏa tiển đặt trên mặt đất của Trung Cộng có cự li  dưới 3.300km, có thể bắn tới hầu hết các khu vực châu Á cũng  như các căn cứ quân sự của Mỹ ở vùng này. Toàn bộ lãnh thổ  Ấn Độ cũng nằm trong cự li của các Hỏa tiển loại này.
Trung Cộng có khoảng 60 Hỏa tiển " Đông phương – 21" (DF-21) , số lượng đã  gia tăng gấp 4 lần, kể từ năm 2005. Trong đó có một số "Đông  phương - 21C" (DF-21C) có thể mang bom thông thường có sức công  phá lớn hay đầu đạn hạt nhân. Điều này làm cho các nhà phân  tích cảnh báo về nguy cơ khi DF-21C được sử dụng trong cuộc xung  đột với Ấn Độ, nước có lịch sử căng thẳng với Trung Cộng về  tranh chấp biên giới và những vấn đề khác.
Trong  trường hợp như thế Ấn Độ sẽ không thể biết Hỏa tiển mang vũ  khí thông thường hay vũ khí hạt nhân. Họ có thể rút ra kết  luận là đang đối mặt với một cuộc tấn công hạt nhân và sẽ  phản ứng phù hợp.
Nguy  cơ tương tự, xuất phát từ việc hiểu sai và leo thang xung đột  còn liên quan đến việc Trung Cộng gia tăng số lượng Hỏa tiển có  cánh của họ. Hỏa tiển có cánh đi chậm hơn Hỏa tiển hành trình,  nhưng chính xác hơn và bay thấp hơn, khó bị phát hiện và bắn  hạ.
Ngũ  Giác Đài khẳng định rằng Trung Cộng có chương trình phát triển  Hỏa tiển hành trình và Hỏa tiển có cánh tích cực nhất thế giới  và họ đang "phát triển và thử nghiệm một số loại mới và  một số loại Hỏa tiển tấn công đã được cải tiến, thành lập  những đơn vị Hỏa tiển mới, nâng cấp một số hệ thống Hỏa tiển và  phát triển các phương pháp chống Hỏa tiển hành trình".
Số giàn phóng dành cho Hỏa tiển có cánh "Đông Hải – 10" (DH-10) – cự  li 1.500KM, bắn vào các mục tiêu trên mặt đất – vẫn chỉ là  khoảng 50. Nhưng Ngũ Giác Đài cho rằng số lượng Hỏa tiển Trung Cộng đã tăng  khoảng 50%, kể từ năm 2009, nghĩa là tới 500 chiếc.
Tương  tự như Hỏa tiển hành trình DF-21C, Hỏa tiển có cánh DH-10 có thể  mang cả vũ khí thông thường lẫn vũ khí nguyên tử. Vì vậy mà  nó có thể kích hoạt một cuộc chiến hạt nhân trong cuộc xung  đột khu vực. Phóng xạ hạt nhân có thể lan ra bên ngoài biên  giới các quốc gia ở châu Á. Trung Cộng muốn chắc chắn rằng  nếu nước này tham gia vào cuộc chiến tranh hạt nhân với Mỹ, Nga  hoặc Ấn Độ thì họ phải giữ được số vũ khí đủ sức trả đũa  và gây ra cho kẻ thù thiệt hại không thể nào chịu đựng nổi.
Trung Cộng sợ rằng công nghệ tiên tiến nhằm bắn hạ Hỏa tiển do các  đối thủ tiềm tàng của họ nghiên cứu và phát triển có thể  xói mòn khả năng ngăn chặn bằng vũ khí hạt nhân của họ. Vì  vậy mà họ muốn có nhiều đầu đạn và hệ thống phóng hơn nữa.
Nhưng  Ấn Độ cũng sợ rằng Trung Cộng hiện đại hóa và tăng cường  lực lượng hạt nhân có khả năng bắn trúng mục tiêu riêng rẽ sẽ  buộc các nước láng giềng chấp nhận những điều kiện của Bắc  Kinh trong khi giải quyết các cuộc tranh chấp.
Kịch  bản lạc quan là khi Trung Cộng nghĩ rằng họ đã đủ sức ngăn  chặn bất kỳ nước nào trong số những kẻ thù tiềm tàng của họ  thì họ sẽ theo gương Mỹ, Nga, Anh và Pháp và công khai kho vũ  khí hạt nhân cũng như phương tiện phóng của họ.
Lúc  đó Trung Cộng và Ấn Độ sẽ cần phải thảo luận về vấn đề  hạt nhân, với điều kiện là Ấn Độ cũng tự tin vào khả năng  kiềm chế hạt nhân của họ. Pakistan, kẻ thù của Ấn Độ và cũng  có vũ khí hạt nhân, phải được mời tham gia các cuộc đàm phán  như thế.
Nhận  thức được rằng minh bạch làm gia khả năng dự đoán và làm  giảm nguy cơ của một cuộc chiến tranh kinh hoàng do tính toán  sai lầm của ai đó là động lực buộc Nga và Mỹ giảm kho vũ khí  và có những biện pháp nhằm kiểm soát chúng. Một hiệp ước  tương tự như thế chắc chắn sẽ có lợi cho cả Trung Cộng, Ấn  Độ, Pakistan, cũng như tất cả các nước khác ở châu Á.
Michael  Richardson là cộng tác viên khoa học cao cấp được mời của Viện  nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore (Institute of South  East Asian  Studies in Singapore).
 

No comments:
Post a Comment