2012/07/31

Hạnh Nguyện Lắng Nghe

Đào Văn Bình 

Nghe là sự vận hành tự nhiên của một cơ thể bình thường. Thế nhưng sự vận hành này tuy tự nhiên nhưng không phải hoàn toàn phóng túng, bừa bãi, vô tổ chức…mà có chọn lọc. Chúng ta có thể ví lỗ tai (nhĩ căn) của chúng ta giống như một chú lính. Khi nhận được một tín hiệu, một thông điệp, một tin tức nào…thì chú vội vàng báo ngay cho chủ tướng của mình - không ai khác hơn là chính Ta. Mà cái Ta này chính là cái Tôi hay cái Ngã do Nhãn (Mắt), Nhĩ (Tai), Tị (Mũi), Thiệt (Lưỡi), Thân, Ý (Ý thức) kết hợp lại mà  thành. Khi một "tin tức" tốt được "báo cáo" thì vị chủ nhân hân hoan nói, "Được, chú  tiếp tục nói đi." Lúc đó vị "chủ tướng" tức cái Ngã, lim rim tận hưởng khóai cảm của những lời tán tụng, những lời du dương, những lời ngon ngọt gửi tới. Thật sướng lỗ tai! Thế nhưng khi một lời nói khó chịu, một lời nói bất ưng được báo vào thì ông tướng lập tức nổi giận, quát tháo ầm ĩ "Cút đi! Ta không muốn nghe nữa!" Thật tội nghiệp cho chú lính. Chú chạy biến ra ngòai, ngồi xuống rầu rĩ bịt kín lỗ tại lại. Trong khi đó thì "ông tướng" có thể vẫn tiếp tục nổi trận lôi đình, chửi bới rân trời và chú Khẩu (Miệng) bị vạ lây.

Nghe lời nói ngon ngọt thì dễ, nhưng nghe, hoặc lắng nghe lời nói nghịch nhĩ thì thật khó khăn. Đối với chúng sinh bình thường, sự lắng nghe đã khó, còn đối với những nhân vật gọi là quyền cao chức trọng, giầu có, tăm tiếng, thế lực, nổi tiếng v.v..thì sự khó khăn đó còn tăng gấp bội, bởi vì cái Tôi, cái Ngã của những vị này rất lớn. Nhìn vào lịch sử Trung Hoa, chúng ta thấy biết bao trung thần, nghĩa sĩ đã chết vì những lời tâu trình nghịch ý vua. Khá hơn là những ông vua, tuy không ra lệnh chém đầu nhưng lại bỏ tù, hoặc tước hết phẩm trật, đuổi về quê những ông quan dại dột tâu lên những điều mà nhà vua không muốn nghe. Còn tại triều đình Âu Châu, các ông vua Tây Phương tuy  không đến nỗi ác độc như vậy, nhưng lại có một lối "bịt tai" một cách rất "thông minh". Các ông vua này nuôi mấy anh hề, chạy lăng xăng trước ngai vàng. Khi có quan đại thần nào tâu trình điều gì thì mấy anh hề làm trò khiến vua cười sặc sụa. Và dĩ nhiên như thế vua có thể "đổ thừa" là "Trẫm có nghe gì đâu!". Quan đại thần lúc đó chỉ có nước lạy tạ mà lui ra. Còn tại Hoa Kỳ, một quốc gia được coi như triệt để bảo vệ quyền tự do ngôn luận và mọi người thảo luận trong tình thần ôn hòa, tương kính. Tuy nhiên không phải tất cả đều như vậy. Quý vị nào theo dõi các buổi hội luận, phát biểu ý kiến trên các đài truyền hình lớn như Fox News, CNN…chắc đã thấy rất nhiều trường hợp, các người tranh luận không thèm lắng nghe người đối diện mình nói, hoặc chờ cho đối thủ của mình nói xong. Cả hai người đều tranh nhau nói, khiến khán giả chẳng biết ông nói gì, bà nói gì, và dĩ nhiên chỉ có nước lắc đầu cười trừ. Ở đây sự xung đột ý kiến lên tới mức trầm trọng khiến người ta không thèm lắng nghe nhau mà chỉ muốn phát biểu ý kiến của mình.

Thế nhưng trong số vô lượng chúng sinh đã và đang ngụp lặn, luân hồi trong Thế Giới Ta Bà này, có một nhân vật rất lạ lùng, đó là Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát đã phát hạnh nguyện lắng nghe; lắng nghe sự khổ đau cũng như nỗi bất ưng của muôn lọai chúng sinh mà đến cứu giúp. Mà ngài đã thể hiện hạnh nguyện đó từ vô lượng kiếp trước. Do đâu mà chúng ta biết được hạnh nguyện của vị đại Bồ Tát hi hữu này?

2012/07/30

Nhân nói chuyện về hiệu lực pháp lý của các bản đồ

Trương Nhân Tuấn

Dư luận VN hiện nay đang xôn xao về tấm bản đồ nước Trung Hoa xuất bản năm 1904, dưới thời nhà Thanh, mang tên "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ". Bản đồ này vẽ lãnh thổ của Trung Quốc năm 1904 không có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Mọi người vui mừng cho rằng đó là một bằng chứng rõ rệt chứng minh các quần đảo HS và TS không thuộc TQ.

Theo tôi, không có điều gì chắc chắn để vui mừng hết. Giả sử phía TQ đưa ra các bản đồ sau đây : 
1/ Bản đồ thế giới do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1960. "Trên bản đồ này, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) được đánh dấu là lãnh thổ Trung Quốc."
2/ Cục Bản đồ của Việt Nam xuất bản tấm bản đồ năm 1972, trong đó quần đảo Nam Sa được chú thích bằng tiếng Hoa, chứ không phải bằng tiếng Việt, tiếng Anh hay tiếng Pháp."

Tài liệu trên đây dẫn từ nguồn :

Nếu hai tấm bản đồ này có thật, lúc đó phản ứng mọi người sẽ ra sao ? Không lẽ bó tay chấp nhận HS và TS thuộc TQ ?

Nếu không lầm, bản đồ 1904 của Trung Hoa, lãnh thổ nước này bao gồm nước Mông Cổ hiện nay. Nếu ta đi ngược thời gian xa hơn, các bản đồ nước Trung Hoa cũng không hề chú dẫn hai quần đảo HS và TS, nhưng trong vài bản đồ lãnh thổ nước này bao gồm nước VN. Không lẽ phía TQ trưng tấm bản đồ này thì phải công nhận VN thuộc TQ ?

Điều may là các tấm bản đồ thường không có giá trị quyết định trên quan điểm pháp lý.

Thật vậy, theo thông lệ công pháp quốc tế, « bản đồ » tự nó thường không được nhìn nhận như là một « bằng chứng » mà chỉ được xem như là một « tài liệu - information », để bổ túc thêm cho một « lý lẽ - argument », hay để khẳng định một « thái độ » nào đó của một bên tranh chấp.

Tấm bản đồ do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1960 và tấm do Cục Bản đồ của Việt Nam xuất bản tấm bản đồ năm 1972 tự nó không có giá trị pháp lý, (cũng như tấm bản đồ 1904 của nhà Thanh), nhưng nếu vấn đề tranh chấp HS và TS được đưa ra một tòa án quốc tế để phân giải, chắc chắn các tấm bản đồ này sẽ được phía TQ sử dụng nhằm vào việc làm rõ ý kiến của phía VN (nhìn nhận HS và TS thuộc TS) qua tuyên bố đơn phương 1958 (thể hiện qua tấm công hàm của ông Phạm Văn Đồng).

Nhiều vụ án về tranh chấp lãnh thổ do Tòa Án Công lý Quốc Tế (CIJ) phân xử, đa số các trường hợp các bản đồ được các bên trưng dẫn thì không được xem như là « bằng chứng » vì chúng không có tác động trực tiếp đến quyết định của các quan tòa. Yếu tố quyết định cho phán quyết của tòa luôn là « thái độ » của nhà nước đối với vùng lãnh thổ tranh chấp.

Một tấm bản đồ có giá trị pháp lý chỉ khi nó được đính kèm với các văn bản của một hiệp đinh phân định biên giới. Dĩ nhiên hiệp ước này phải còn hiệu lực (do việc không có hiệp ước nào khác ký kết sau này thay thế). Tuy vậy, nhiều trường hợp lịch sử cho thấy nhiều tấm bản đồ phân định biên giới đã không phù hợp với nội dung của công ước. Trong trường hợp này, theo thông lệ quốc tế, văn bản có hiệu lực « cao » hơn bản đồ. Một số trường hợp khác, bản đồ phân định, cũng như nội dung văn bản, cả hai đều không phù hợp với địa hình trên thực địa. Như trường hợp phân định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh biên giới giữa Bắc Kỳ và các tỉnh Hoa nam năm 1887, hầu hết nội dung các biên bản phân định cũng như các bản đồ đính kèm đều không phù hợp với địa hình trên thực tế (xem thêm phần tham khảo). Trường hợp này, các công trinh phân giới sau này (1888-1897) cùng với bộ bản đồ vẽ trên kết quả cắm mốc, mới có giá trị thực sự. Tuy vậy, trong các hồ sơ chính thức hiện nay được lưu trữ trong các thư viện thế giới, đường biên giới Việt Trung 1887 chỉ thể hiện qua 3 trang mô tả sơ sài cùng với các bản đồ (hoàn toàn sai) đính kèm. Vì thế nhiều học giả trên thế giới đã có nhận định sai trong các công trình nghiên cứu vì chỉ dựa trên nội dung của công ước mà không tham khảo tài liệu giai đoạn phân giới.

xuôi ngược trên CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC - Bài số 3

xuôi ngược trên
CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Bài số 3
HỒ TẤN VINH

Một đứa con nít khát sữa, nó chỉ cần khóc thét lên là mẹ nó lẹ làng vạch vú ra cho nó bú.

Một người lớn đói bụng muốn có ổ bánh mì ăn, la làng lên không có ai cho. Một người lớn muốn có ổ bánh mì ăn phải trải qua nhiều giai đoạn. Trước hết là phải có tiền để mua. Muốn có tiền để mua thì phải đi làm (nếu không cần tiền thất nghiệp). Muốn đi làm thì phải cố gắng đủ mọi cách để kiếm việc làm. Có việc làm rồi thì phải đổ mồ hôi ra mới biến thành đồng tiền lương thiện.

Cái lý sự đơn giản này đúng ở khắp mọi nơi, kể cả ở chánh trường.

Có rất nhiều người chống cộng rất triệt để. Họ không chịu chấp nhận chế độ CS cải tiến từ từ, mà họ đòi hỏi phải thay đổi hoàn toàn. Cũng tốt thôi. Nhưng nếu bọn CS ngoan ngoản chịu bàn giao chánh quyền thì ai là người nhận bàn giao? Đâu phải chỉ một ông Thủ Tướng và vài chục Bộ Trưởng. Tìm đâu ra các Trưởng Ty Thuế Vụ, Trưởng Ty Cảnh Sát, Trưởng Ty Quan Thuế, Hiệu Trưởng Tiểu Học, Trung Học, Các Đại Sứ, các Tướng Tá trong quân đội, cả trăm ngàn sếp lận? Đó mới là nói về nhân sự. 

NHỮNG CHUYỆN TRỜI ƠI!

NGUYỄN THỪA BÌNH

trên đời có những chuyện tréo cẳng ngỗng một cách chướng tai, gai mắt. Người ta thích nịnh hơn nói thật, nói thẳng. Ai cũng tỏ ra ta đây hơn người, khoe những cái hay ( không có ), che những cái dỡ ( dẫy đầy ) mà làm những việc đáng phiền hà. Khi khen thì vỗ tay rần rần. Khi chê thì “ngậm máu phun người”. Làm sao mà tiến bộ!? Nói một đường làm một nẽo. Nói chống Cộng thì y như rằng, làm lợi cho Việt cộng. Nói lương thiện, y như rằng làm chuyện bất đạo. Mới dưới tượng Chúa xưng tội, dưới tượng Phật sám hối bước ra, thì vẫn cứ mưu tính chuyện vô lương. Những kẻ huênh hoang nhất là những kẻ ti tiện nhất. Chúng tôi xin đơn cử vài mẫu chuyện mắt thấy tai nghe dẫy đầy trong thành phố nhỏ nhoi của chúng tôi, thành phố Kansas City của tiểu bang Missouri, thấy mà không nói thì không chịu được !


- Có một tiệm, tôi chỉ nói có một tiệm buôn bán DVD, CD ở đây cứ sang lậu các dĩa DVD, CD của các trung tâm, của các nhà làm phim, của các ca sĩ…mà bán. Và bà con ta có những người thuộc loại keo kiết cứ kiếm các dĩa dvd, cd sang lậu đó mà mua. Mua mua, bán bán…các trung tâm sản xuất đóng cửa, các ca sĩ, nghệ sĩ giải nghệ. Một, hai năm nữa, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào có người Việt thì có từng đống, từng đống nhạc “như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” bán rẻ 1 đồng, 5 cắc cũng mua nghe cho đỡ ghiền, rồi thành Việt Cộng hồi nào không hay. Lương tâm đâu!? Ðạo đức đâu!? Người Việt Quốc Gia đâu!? Những kẻ bần tiện, làm những chuyện bất nhẫn, bất nhân, bất nghĩa như vậy cứ vênh vênh cái bản mặt tự đắc, tự kiêu có bao giờ thấy tội trước Phật, trước Chúa…vễnh to lỗ tai nghe người ta chửi, rủa đến ba đời tổ tiên mình?

- Việt Nam mới qua, thấy cái gì cũng ham, cũng hám :

* Thấy mấy xe mua hàng ( shopping cart ) ở các cửa tiệm mạ kền bóng lộn khoái quá, quen thói “chôm chỉa” ở Việt Nam, bèn lén lút đẩy về nhà dấu làm kỹ vật ăn cắp. Một chiếc rồi hai chiếc để chật nhà. Không giống ai. Nửa đêm thậm thà thậm thụt, vợ chồng xấu hổ quá, rủ nhau đem bỏ ngoài đường. Xóm làng nói nhau: “đồ thứ tham lam”.

* Thấy sự mua đi trả lại dễ quá, bèn cứ mua máy chụp hình, máy quay phim, áo quần, giày dép…thật tốt thả giàn. Sinh nhật xong, đám cưới xong, đi chơi xa xong, đem trả lấy tiền lại, có sao đâu? Có chết thằng Tây trắng, thằng Tây đen nào đâu? Có là có người ta chửi cha, chửi mẹ mình; có là có Bề Trên bắt tội là “đồ gian giảo”, sau khi chết, theo Ðạo Thiên Chúa xuống địa ngục; theo Ðao Phật vào cõi súc sanh ngạ quỷ.

* Cứ mặc đồ xấu vào tiệm bán đồ cũ ( thrift store ), thản nhiên mặc đồ tốt vào, đi ra không thèm trả tiền cho ai, tênh hếch cái bản mặt cướp cạn! Vào các tiệm, tráo đổi hay quăng bỏ những barcode đi rồi tự nhiên như người Hà Nội bỏ vào túi ra cửa hay ra cashier tính tiền rẻ. Bị bắt sẽ bị tội ăn cắp hàng ( shop lifting ). Lúc đó đứng kêu trời, trời cũng không giúp được cái thứ mánh mung, hôi của, cướp vặt.

2012/07/29

Những chuyện “lạ” mà không lạ ở Bình Dương


  Văn Quang - Viết từ Sài Gòn, ngày 27.7.2012



Những chuyện “lạ” mà không lạ ở Bình Dương

Là một tỉnh phát triển rất nhanh và rất lớn ở miền Nam Việt Nam, Bình Dương có thể coi như một Sài Gòn thứ hai, trừ mặt ổn định xã hội.

Tỉnh Bình Dương nằm cạnh thành phố Sài Gòn nên dễ dàng sử dụng các công trình hạ tầng của thành phố này như: sân bay, hải cảng. Hệ thống giao thông của tỉnh nối liền với các đường giao thông quốc gia quan trọng như quốc lộ 1A, 13, 14, 22, 51, đường cao tốc Biên Hoà - Tân Uyên, quốc lộ 13. Hệ thống đường nội tỉnh: Xe hơi và các loại xe cơ giới đến được 100% số xã trong tỉnh, ngoài ra có 3 con sông chính là sông Bé, sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn.

Gọi chung là Bình Dương, nhưng thực ra tỉnh này gồm sáu huyện: Bến Cát, Dầu Tiếng, Dĩ An, Phú Giáo, Tân Uyên, Thuận An. 

Thủ phủ của tỉnh - Thủ Dầu Một - là một đô thị riêng biệt. Ngày nay cái tên gọi Bình Dương là gồm chung các làng mạc, thị trấn nói trên vì tất cả hầu như đả được đô thị hóa, trở nên một thành phố lớn.

Phát triển quá nhanh, dân tứ xứ kéo về đủ loại

Trước năm 1975, Bình Dương chỉ là một vùng quê nghèo, nổi tiếng về làm gốm, làm lu, và các vật gia dụng như thau chậu, chén bát được làm từ đất nung. Sau này làng nghề truyền thống đó hầu như biến mất, chỉ còn lại vài cơ sở lớn làm nghề gốm xứ khá nổi tiếng.

Nghề làm gốm tại Bình Dương trước năm 1975

Một lò làm lu và đồ gia dụng tại Bình Dương hồi xưa

2012/07/28

Kỹ thuật đánh phá tinh vi của Việt Cộng

Trúc Giang

* Mở bài

Trúc Giang tôi vừa nhận được email của ông Huỳnh Quốc Bình, viết ngày 18-7-2012 tại Salem, Oregon, có câu: “Việt Cộng có dốt nhưng chúng không ngu. VC sẽ không bao giờ mang dép râu, đội nón cối, mang súng AK để tiếp xúc hay “tiếp cận” người Quốc Gia, mà chúng xử dụng các vỏ bọc “từ thiện”, “văn hoá”, “tôn giáo” v.v…Là những thứ được xem như “bất khả xâm phạm”. Vì thế, ai mơ hồ về VC là lập tức trở thành nạn nhân của cái đám đảng cướp VC ngay”.(Huỳnh Quốc Bình).

Đám người thực hiện những cái “vỏ bọc” đó là tay chân, hạ bộ nằm vùng của chúng. Đám nầy cũng có những học vị “cao cấp”, nên kỹ thuật rất tinh vi.

2* Những chiêu bài mới nghe rất có lý

Những chiêu bài “đoàn kết dân tộc”, “xoá bỏ hận thù”, “xây dựng quê hương”, mới nghe thì thấy có lý quá. Các tôn giáo và truyền thống đạo đức dân tộc, luôn luôn khuyên người không nên mang thù hận trong lòng, vì như thế, thì trước hết là tự hại mình. Khoan dung, tha thứ là nếp sống được ca ngợi.

VC lợi dụng lòng nhân từ, lòng yêu nước, yêu quê hương và tình dân tộc để tuyên truyền, mục đích đánh phá các tổ chức tranh đấu cho dân chủ, tự do và nhân quyền của người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại.

2.1. Chiêu bài xoá bỏ hận thù
Việt Cộng cho rằng người quân nhân VNCH là Việt gian, tay sai đế quốc Mỹ, luận điệu nầy được báo Người Việt đăng tải ngày Chủ nhật 8-7-2012 vừa qua. Nhiều người chưa thấu hiểu rằng, chiến sĩ VNCH chính là đồng bào miền Nam, vì bảo vệ tự do, dân chủ, bảo vệ nước VNCH, nên những người con của Tổ quốc, là con, là chồng, là cha trong gia đình của người miền Nam, đã tập họp trong những đơn vị quân đội, chiến đấu chống lại những tên tay sai Cộng Sản quốc tế trong kế hoạch nhuộm đỏ miền Nam và thế giới.

Sau ngày 30-4-1975, người miền Nam mới hiểu thấm thía câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, là “Mất nước là mất tất cả”. Thấm thía nhất là những lúc phải xếp hàng mua từng kí gạo, khi ăn bo bo dài dài, khi bị đuổi đi kinh tế mới… Gia đình chị bán sạp vải ở chợ Bà Chiểu phải đi kinh tế mới vì không lao động sản xuất, con buôn thuộc về giai cấp bóc lột.

Đồng bào phường khóm cảm thấy không còn tự do đến nỗi phải bỏ dở công việc đang làm, khi một cậu bé 15 tuổi, tay mang băng đỏ, cầm loa triệu tập, họp mít tinh khẩn cấp tại sân trường học…

Chừng đó, mọi người mới thấy tự do là đáng quý, và trong những câu chuyện nói về lý do bị mất nước, thì nhiều người thở ra, tự nhận, mình cũng có ít nhiều trách nhiệm trong đó. Chị bán rau cải hối tiếc việc tham gia biểu tình do tay sai VC nằm vùng, giật dây hoặc tổ chức. Bác thợ hớt tóc tự nhận mình cũng có trách nhiệm trong việc cho con đi trốn quân dịch…

Việt Cộng tuyên truyền rằng, người quân nhân VNCH có mặc cảm bị bại trận, bị tù cải tạo, gia đình bị đuổi đi kinh tế mới, tài sản bị cướp, cho nên mới thù hận mà chống cộng, thậm chí những tên bưng bô cho VC, còn cho rằng chống cộng vì cảm tính, vì thánh chiến, chống cộng chết bỏ, chống cộng vì xôi thịt…

Cho rằng đấu tranh cho dân chủ là do thù hận, là hoàn toàn sai lầm. Tại sao sai?

2.1.1. Đấu tranh đòi dân chủ, tự do cho đồng bào trong nước không phải do thù hận
Những tổ chức người Việt tỵ nạn Cộng Sản đấu tranh cho dân chủ, tự do, không phải cho mình, mà là cho 83 triệu đồng bào VN chân chính trong nước (trừ 3 triệu đảng viên). Người Việt ở Mỹ, châu Âu, châu Úc đã có tự do, đã được đối xử bình đẳng với người dân bản xứ. Nhiều trường hợp con cái của họ được ưu đãi, giúp đỡ trong việc học hành còn ưu tiên hơn con cái người bản xứ, cụ thể là ở Hoa Kỳ trong việc được cấp Pell Grant.

Trong những cuộc biểu tình chống cán bộ VC, như chống Tôn Nữ Thị Ninh, Phạm Gia Khiêm, Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, thì những biểu ngữ chỉ đòi “Democracy for Vietnam”, Freedom for VN”, “Human Rights for VN”, chả có thù hận gì cả.

Đức Phật - Nơi quy ngưỡng của tâm hồn nhân loại


Tuệ Năng


Đức Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ VI trước Tây lịch và đã có những cống hiến to lớn cho cuộc đời.

Về Thánh cách của Ngài, cựu Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru trang trọng ghi nhận: “Đức Phật có cá tính rất đặc biệt đến độ ngày nay người ta vẫn còn nhớ như in mỗi khi nghĩ đến Ngài. Ngài là mẫu người hoàn chỉnh của sự uy nghiêm, thanh thản và dịu dàng, vô vàng trìu mến chúng sinh và thương cảm những kẻ bất hạnh, một con người hoàn toàn tự do về tinh thần và không hề có chút định kiến đối với bất cứ ai” (1).

Về tầm ảnh hưởng và sự cống hiến của Ngài, học giả H.W. Schumann nêu nhận xét: “Rất hiếm nhân vật trong lịch sử tư tưởng nhân loại từng có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài như Đức Phật Siddhattha Gotama, và cũng không ai từng để lại dấu ấn sâu đậm lên toàn cõi châu Á như Ngài. Đạo giáo do Ngài sáng lập không chỉ đem lại nguồn an ủi cho vô số người mà còn cung cấp nền tảng học thuyết nhân bản cao thượng và một di sản văn hoá vô cùng tinh tế.

Bài pháp đầu tiên do Ngài thuyết giảng ở Sàrnàth gần Benares vào năm 528 trước Tây lịch là một sự kiện lớn mang lại kết quả đầy lợi lạc liên tục mãi cho đến tận ngày nay” (2).

Ngoài Thánh cách cao thượng luôn gợi cho con người những cảm xúc ý nhị và suy nghĩ tích cực, ba đặc điểm cống hiến to lớn của Đức Phật - “học thuyết nhân bản cao thượng”, “di sản văn hoá tinh tế” và “nguồn an ủi cho vô số người” - mà học giả H.W. Schumann đã nêu ra là đủ cho ta hiểu lý do vì sao nhân loại trên hành tinh cũng như các tổ chức văn hoá và nhân văn thế giới luôn hướng về chiêm ngưỡng Ngài và cố gắng học hỏi truyền bá giáo lý của Ngài.

Bài viết này chỉ đề cập một khía cạnh rất nhỏ trong số các nhận định vừa nêu.

Qua sử chí Trung Quốc, thử tìm hiểu vùng biển giáp giới hai nước Việt Trung



Hồ Bạch Thảo

Dưới thời Nguyên, Trung Quốc mang binh thuyền tấn công Nhật Bản bị thất bại ; thời Vĩnh Lạc triều Minh, hạm đội của Trịnh Hòa dương oai tại vùng Ðông Nam Á, việc làm chỉ được tiếng, nhưng tốn kém quá nhiều, có lần bị giết 170 người tại Trảo Oa [Java] 1, nên cuối cùng đến đời Tuyên Ðức chương trình này đành phải dẹp bỏ. Suốt hai triều đại Minh, Thanh ; quân Nhật [Nụy] thao túng cướp phá vùng biển, Trung Quốc chỉ phòng thủ trên bờ và ven biển cũng không xong, nên không màng đến biển cả. Bằng cớ ngay cảc đảo lớn giàu tài nguyên như Ðài Loan, Bành Hồ, được liệt vào ngoại quốc trong Minh Sử 2 ! Biển lúc bấy giờ là mối hệ lụy, nên Trung Quốc chủ trương phòng thủ thụ động trên bờ, bỏ mặc đại dương không chiếu cố đến. Sách lược này được phản ảnh một cách cụ thể trong trường hợp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Ngô Hùng Quang xin chế tạo nhiều thuyền để ra biển bắt cướp ; bị vua Gia Khánh bác và khẳng định quốc sách là phòng thủ tại cảng và truy lùng những người trên bờ ngầm mua bán hợp tác với bọn cướp :

Ngày 2 Kỷ Tỵ tháng 12 năm Gia Khánh thứ 12 [30/12/1807]

...Còn trong tấu triệp Ngô Hùng Quang trình bày rằng “ Thuyền cướp qua lại đợi chờ mới liên lạc được với bọn gian trên bờ, nếu thuyền binh khẩn trương theo tung tích truy nã, thì bọn chúng không thi thố được thủ đoạn. Vậy muốn ngăn tiếp tế, nên tu tạo nhiều thuyền, xuất dương truy bắt.”

“Ðiều này không đúng, về bọn cướp biển, gạo, nước, thuốc súng đều nhờ vào trên bộ. Bọn giặc trên bờ và dưới nước vốn quen nhau, ngầm giao dịch, cũng không phải chờ bọn cướp biển lên bờ tìm kiếm mới được tiếp tế. Tổng chi, đáng ra lệnh các quan văn võ tại cửa biển mật cho tuần tra, nghiêm bắt, trừng trị nặng ; bọn phỉ trên bờ co rút lại, thì mới đoạn tuyệt việc tiếp tế.

Nếu làm theo lời tâu, chế tạo nhiều thuyền bè, xuất dương đánh bắt, theo sát gót tung tích thuyền cướp, không để cho chúng nhàn rỗi hoành hành. Nhưng không biết rằng trên đại dương có bao nhiêu thuyền cướp để theo bén gót, vả lại trên biển dòng nước bất đồng, gió bão không định, khó mà ra lệnh thuyền nào của ta theo dõi thuyền nào của giặc cướp. Hãy suy nghĩ nếu bọn giặc biển không biết bọn phỉ trên cạn, đột nhiên đến mua nước, gạo, thuốc súng, thì ai mà bán cho. Ðiều đó khẳng định rằng việc cấm bọn phỉ tiếp tế tất phải nghiêm tra trên bờ, làm vững rào dậu là biện pháp chính. Phúc Kiến nghiêm cấm tiếp tế tại cửa biển, thực hiện hữu hiệu, tỉnh Quảng Ðông cần nhất luật thực hiện…” (Nhân Tông Thực Lục quyển 189, trang 7)

Cùng đề cao sách lược phòng thủ thụ động nơi ven biển, tại quyển 9, Hải Phòng, trong Quảng Ðông Thông Chí, Tổng đốc Hác Ngọc Lân tóm tắt :
 “ Phàm thuyền đến không cho đậu, đi không tiếp tế ; thì dân chúng duyên hải đều được yên gối mà ngủ.

Với chính sách về biển như vậy, nên từ triều Thanh trở về trước, tại biển nam, Trung Quốc giới hạn vùng lãnh hải gần bờ ; nhường phần còn lại cho An Nam, để nước này cáng đáng việc đánh bắt cướp biển ngoài khơi. Cũng trong quyển 9, Quảng Ðông Thông Chí, có đoạn chép về giới hạn biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, nguyên văn như sau :

xungyeu
Xung yếu :

2012/07/27

Những năm còn lại trong cuộc đời ...

SLBT

Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong khuôn viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già !

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc. Vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nửa. 

Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xãy ra trong đời sống.
Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người, nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền, và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái.

HẠT CƠM

MINH MẪN

Bên vỉa hè, phố lạnh, núi nhạt nhòa trong mưa, cùng vài người qua đường đứng trú, nhìn bầu trời ảm đạm, môi em xanh tím, mắt thẩn thờ trong mơ!

Chẳng một ai nói gì, như xa lạ với nhau giữa con phố dăm bước, đường ngắn hẹp vội ngăn bóng nhau. Không gian mờ nhạt bị núi đồi níu xuống cho lạnh thêm phố phường. Mỗi người chiếm một góc suy tư riêng mình, cứ sợ ai đó xen vào niềm vui, nẽo khổ của kiếp riêng tư. Trên đồi, Thân nhìn xuống phía trũng, con đường mòn nhão nhoẹt, cỏ cây khuất lấp, chui sâu trong lau sậy bụi rậm, đến khi mất hút giữa rừng xanh; không ai thấy có sự sống đâu đó giữa bạt ngàn xanh thẳm, - túp lều của ba anh em Thân trú ngụ.

Chùa Giác Minh bị sách nhiễu; Tình thư tháng Bảy; Tường trình biều tình; Vài dòng của một Phật tử Huế




PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
BP 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France)
Tel.: Paris (1) 45 98 30 85<br>
Fax : Paris (1) 45 98 32 61
E-mail : pttpgqt@gmail.comPHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail : pttpgqt@gmail.com


THÔNG CÁO BÁO CHÍ NGÀY 26.7.2012

Chùa Giác Minh ở Đà Nẵng tiếp tục bị sách nhiễu – Giáo hội Phật giáo Nhà nước chỉ điểm để bắt bớ Ban Đại diện GHPGVNTN Bình Thuận - Tình Thư Tháng Bảy gửi Người Saigon Người Hà Nội, và Tường trình của Hòa thượng Thích Thiện Hạnh về cuộc biểu tình Huế ngày 1.7


2012-07-26 | | PTTPGQT


Chùa Giác Minh ở Đà Nẵng tiếp tục bị sách nhiễu

Nhân chuyến Hành hương Miền Trung, Hòa thượng Thích Nguyên Lý, Tổng Thủ qũy Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), Viện chủ chùa Từ Hiếu ở Saigon cùng với 40 Phật tử ra thăm chùa Giác Minh ở Đà Nẵng để chia sẻ những khó khăn, bức hiếp, cô lập do nhà đương quyền và công an Đà Nẵng gây ra mấy năm qua.

Công an và dân phòng đã ngăn cản không cho đoàn vào chùa Giác Minh đảnh lễ Phật và vấn an Hòa thượng Thích Thanh Quang. Nhưng Hòa thượng Thích Nguyên Lý cùng phái đoàn phản đối quyết liệt, xông qua hàng rào công an để vào chùa Giác Minh.


Hòa thượng Thích Thanh Quang phải ra đóng cổng chùa để ngăn cản công an, dận phòng đột nhập bất hợp pháp vào chùa bắt Phật tử đến lễ Phật, Hình PTTPGQT
Hòa thượng Thích Thanh Quang phải ra đóng cổng chùa để ngăn cản công an, dận phòng đột nhập bất hợp pháp vào chùa bắt Phật tử đến lễ Phật, Hình PTTPGQT

Hôm 20.7 vừa qua, một phái đoàn gồm 20 Phật tử Huế cũng vào thăm chùa Giác Minh, lại cũng bị công an và dân phòng ngăn chận. Hăm dọa ai bước qua cổng chùa Giác Minh sẽ bị bắt khi rời chùa. Nhưng phái đoàn Phật tử bất chấp hăm dọa vượt qua hàng rào công an, tiến vào chùa lễ Phật. Công an và dân phòng đã đuổi theo lôi kéo, xô xát, kéo từng người ra khỏi chùa. Hòa thượng Thích Thanh Quang, viện chủ chùa Giác Minh phải lên tiếng phản đối và ra đóng cổng chùa ngăn chận sự xâm nhập bất hợp pháp của công an và dân phòng.


Giáo hội Phật giáo Quốc doanh ra thông báo chỉ điểm Ban Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình Thuận

Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) tỉnh Bình Thuận do Thượng tọa Thích Thiện Tâm lãnh đạo, ra đời từ năm 2007.

Vừa qua, Ban Đại diện đã làm lễ ra mắt Ban Đại diện nhiệm kỳ 2012 – 2015 tại chùa Đạt Ma ở thành phố Phan Thiết. Liền tức khắc, Hòa thượng Thích Chơn Thành, Trưởng ban Giáo hội Phật giáo Nhà nước tỉnh Bình thuận, liền ra Thông báo gửi tới chư Tăng Ni, Phật tử, Sở Công an / Phòng PA.88, Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân thành phố, Mặt trận Tổ quốc tố cáo và phủ nhận Ban Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình thuận.

Trưởng ban Giáo hội Phật giáo Nhà nước tỉnh Bình thuận tố cáo “Quyết định số 27D/VHĐ/QĐ/VT ngày 16.3.2012 do Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN Thích Viên Định ký là bất hợp pháp, vi phạm pháp luật, trái với Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN, tức Giáo hội Nhà nước), lợi dụng danh nghĩa Phật giáo để gây chia rẽ và làm suy giảm GHHPGVN, ảnh hưởng đến khối Đại đoàn kết toàn dân tộc”.

2012/07/26

Người bộ hành xuyên Việt "nhất bộ nhất bái"


Trên tuyến quốc lộ 1A đoạn qua miền Trung, tôi đã thường xuyên gặp hình ảnh một người tu hành đang kính cẩn thực hiện nghi lễ đặc biệt: Đi một bước, lạy một lần. Một lần tôi đã dừng xe để trò chuyện và được nghe những thông tin chưa từng biết về cuộc hành trình “nhất bộ nhất bái” gây xôn xao dư luận này.

Người bộ hành kỳ lạ

Người bộ hành đặc biệt nhỏ bé, chân trần, khuôn mặt hiền và ánh mắt nghiêm nghị. Ông gần như hoàn toàn tập trung vào việc hành lễ. Lần đầu tiên tôi gặp đoàn người kỳ lạ này trên mặt đường nhựa rát bỏng qua thành phố Đông Hà (tỉnh Quảng Trị) giữa cái nắng chang chang và khói bụi nghìn nghịt. Nắng cháy sạm da, mồ hôi ròng ròng chảy nhưng gương mặt người tu hành thật bình thản và những động tác quỳ lạy khoan thai dường như không vướng bận ngoại cảnh khắc nghiệt.



Lần khác tôi lại gặp đoàn hành lễ trong một buổi chiều muộn mưa táp rát mặt tại huyện Lệ Thủy (Quảng Bình). Bất chấp mưa xiên và cái lạnh thấu da thấu thịt, đoàn người vẫn trang nghiêm di chuyển với câu niệm "Nam mô A di đà Phật" đầy thành kính. 

Ngoài nhà sư đi một bước, lạy một lần, đoàn người đi cùng thường kéo dài đến cả cây số, tiền hô hậu ủng, luôn luôn có những người đi cùng trong đoàn làm công tác dẹp đường, đảm bảo các phương tiện lưu thông và giữ an toàn cho người hành lễ. Mỗi bước chân của người bộ hành đặc biệt này trên các vùng đất khác nhau đều thu hút rất đông người quan tâm và làm nhiều người đi đường hiếu kỳ phải dừng lại. 

Theo lời của nhiều người dân, mỗi việc làm trên đường hành lễ đều không phải tầm thường mà có ý nghĩa linh thiêng. Nhiều người đã tự nguyện quét hàng km đường quốc lộ trước khi bước chân nhà sư đi qua để cầu mong hưởng lộc, cuộc sống nhiều may mắn. Đông đảo người thành tâm đã tự túc chuẩn bị cả phương tiện và lương thực để nhập vào đoàn bộ hành đi theo người hành lễ. Người ta gọi đó là những người “trợ duyên” trong hành trình xuyên Việt mang sức mạnh tâm linh huyền bí. Người “trợ duyên” sẽ được độ trì, người đau ốm sẽ có sức khỏe, người mang tội sẽ được ân xá, người u muội kém trí tuệ sẽ dần được khai tâm khai trí.

Câu chuyện về cuộc hành trình phi thường trên quốc lộ 1A của người đàn ông mặc áo tu hành đã lan truyền với tốc độ chóng mặt, đến tận những vùng quê xa xôi. Không ít người đang dở việc đã bỏ công bỏ buổi, bỏ cuốc bỏ cày chạy ra đường quốc lộ để xem nhà sư vừa đi vừa lạy. Từ cách đó khoảng vài cây số, người ta đã thấy rải rác hình ảnh những phật tử cầm chổi quét đường quốc lộ. Họ quét miệt mài, cẩn thận nhặt từng viên sỏi, từng mẩu thuốc lá để dọn đường. Và đoàn hành lễ đi qua sẽ để lại một vệt đường sạch bóng không một mẩu rác rưởi. 

Lộ trình huyền bí

Lễ Húy nhật Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang

********************************************************************************
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
B.P. 60063 - 94472 Boissy Saint Léger cedex (France) - Tel.: (Paris) (331) 45 98 30 85
Fax : Paris (331) 45 98 32 61 - E-mail :
pttpgqt@gmail.com
Web : http://www.queme.net
**********************************************************************************************
 
 
THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TI PARIS NGÀY 25.7.2012
L Húy nht năm th Tư ca Đc c Đ t Tăng Thng Thích Huyn Quang ti Tu vin Nguyên Thiu, tnh Bình Đnh, và Hi ngoi ti chùa Pháp Luân, thành ph Houston, Hoa Kỳ


PARIS, ngày 25.7.2012 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế vừa nhận được Bản Tin Lễ Húy nhật Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang tổ chức tại Tu viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Định do Viện Hóa Đạo viết ngày 23.7.2012 gửi sang Paris.

Đồng thời ở Hải ngọại tại chùa Pháp Luân, thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ, hôm chủ nhật 15.7.2012, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ tổ chức long trọng lễ Húy nhật bốn năm ngày Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang viên tịch.

Xin được thứ tự trình bày hai cuộc lễ trong và ngoài nước ấy như sau :


Bản tin Lễ Húy nhật
Đức cố Tăng Thống Thích Huyền Quang tại Quốc nội


Sau Lễ Đại Tường của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) Thích Huyền Quang năm 2010, do thỉnh nguyện của Môn Đồ và Hiếu Quyến nên Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN đã chấp thuận để Môn Phái đứng ra tổ chức Lễ Húy Nhật Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống hằng năm.

Linh đài Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, Hình PTTPGQT
Phái đoàn Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN tiến vào sân Tu viện Nguyên Thiều. Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Thích Viên Định hình bên phải, Hòa thượng Thích Như Đạt, thành viên Hội đồng giáo phẩm Trung ương Viện Tăng Thống, hình bên trái, Hình PTTPGQT
Linh đài Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, Hình PTTPGQT
Phái đoàn Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN tiến vào sân Tu viện Nguyên Thiều. Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Thích Viên Định hình bên phải, Hòa thượng Thích Như Đạt, thành viên Hội đồng giáo phẩm Trung ương Viện Tăng Thống, hình bên trái, Hình PTTPGQT

Tuy nhiện đến ngày húy nhật, Đại Diện Hội Đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo) cùng Chư Tăng và Phật Tử trên Toàn Quốc đều vân tập về Tu viện Nguyên Thiều để đảnh lễ Giác Linh, truy niệm Công Hạnh và thăm viếng Bảo Tháp của Ngài.

Năm nay, âm lịch Nhâm Thìn, 2012, Phái Đoàn của các Tỉnh Thành thống thuộc GHPGVNTN đã lần lượt tề tựu tại Tổ Đình Thập Tháp từ đêm mồng 2 tháng 6 âm lịch để kịp sáng mồng 3 tháng 6 cùng nhau lên đường đến Tu viện Nguyên Thiều cử hành Đại Lễ cúng dường.

2012/07/25

xuôi ngược trên CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC Bài số 2


xuôi ngược trên
CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Bài số 2

HỒ TẤN VINH

Tại hải ngoại, tình hình sinh hoạt của các hội đoàn, các đảng chánh trị trong quần chúng hay trên internet rất là hổn loạn khiến một người thường dân không hiểu nổi, không thể phân biệt đâu là thiệt, đâu là giả. Kẻ nội thù trà trộn trong hàng ngũ thao túng tự do.

Để lần mò tìm ra sự thật rồi từ đó mới xác định ai bạn ai thù, ta phải dựa vào ba nguyên tắc cơ bản:
1.- Chế độ cộng sản ở Việt Nam cần phải được thay thế.
2.- Chống cộng là một việc làm của nhiều người. Số người chống cộng càng đông càng tốt, càng mau có kết quả. Bất cứ ai chống chế độ CS ở VN đều là bạn đồng hành với chúng ta.
3.- Những người bạn đồng hành phải biết rằng nếu không thật tâm góp lực để chống cộng lại phí thời gian chống đối lẫn nhau là Việt gian, họ cố tình làm suy yếu nội lực chống cộng.

Để không bị chi phối bởi tình cãm riêng tư, ta cứ đem ra áp dụng triệt để ba nguyên tắc trên cho tình hình hiện nay thì có thể khách quan biết được ngay chỗ nào đúng chỗ nào sai, ai đóng góp cho đại cuộc và ai phá hoại.

Hiện nay có ba cánh chống cộng: Cánh Đối Kháng của những người CS cũ, Cánh của Người Việt Hải Ngoại và Lực Lượng Việt Nam do các tôn giáo lãnh đạo.

Tranh chấp Trung Nhật về chủ quyền quần đảo Điếu Ngư (Senkaku - Tiêm Các chư đảo)

Trương Nhân Tuấn


 Những ngày gần đây quan hệ hai bên Trung-Nhật căng thẳng do nhiều biến cố sinh ra từ việc tranh chấp chủ quyền quần đảo Điếu Ngư. Tranh chấp này bắt đầu từ thập niên 70, sau khi các cuộc thăm dò cho thấy có dầu khí trong khu vực thềm lục địa quần đảo này. Những năm sau này, nhất là từ năm 2010, hai bên Nhật-Trung luôn có những tranh cãi ngoại giao, do các việc ngư dân TQ đánh cá trái phép, hay các tàu hải giám của TQ liên tiếp xâm nhập vào vùng biển thuộc quần đảo Senkaku. Những ngày gần đây, căng thẳng tăng lên, theo giọng điệu gay gắt của phát ngôn nhân TQ Hồng Lỗi, sau khi chính phủ Nhật ra quyết định mua lại các đảo Điếu Ngư (vốn thuộc chủ quyền của tư nhân Nhật), vào tháng 3 năm 2013. Báo Le Monde, dẫn lời ông Kazuhiko Togo, Giám đốc Học viện các vấn đề Thế giới, thuộc Đại Học Kyoto (l’Institut des affaires mondiales à l’université de Kyoto), rằng Nhật cần phải chuẩn bị quân đội cho sánh kịp với TQ. Vấn đề này đã thực sự trở thành tuyên bố chiến tranh (casus belli). Nội vụ tranh chấp Nhật-Trung về việc này ra sao ? Sau đây là một số dữ kiện cùng nhận định của tác giả về cuộc tranh chấp này.

1/ Sơ lược địa lý : Quần đảo Senkaku (tiếng Nhật Senkaku shotō, 尖閣諸島, phiên âm Hán Việt là Tiêm Cát chư đảo), hay 釣魚台 - Diàoyútái (tiếng Hoa), tức Điếu Ngư Đài, có nghĩa là « bục câu cá », có tọa độ vị trí 25° 47′ 53″ Bắc 124° 03′ 21″ Đông, gồm có 5 đảo chính và một số đá, diện tích tổng cộng khoảng 7km², cách bờ biển Phúc Kiến khoảng 320km, cách chỏm đông-bắc Đài Loan 190km, cách nhóm đảo Yaeyama của Nhật là 150km. Đảo lớn nhất có diện tích 4,3km², có tên Nhật Uotsuri-jima, tên Hoa 釣魚島, tức Điếu Ngư Đảo. Các đảo thuộc quần đảo này thì không có người ở. Quần đảo Senkaku hiện nay do Nhật quản lý, sát nhập hành chính cùng với một số quần đảo khác, vào tỉnh (hay huyện ?) Okinawa, tạo thành quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu).

Quần đảo Ryukyu, ở phía nam, cùng với quần đảo Satsunan (Satsunan shotō - Tát Nam chư đảo - trực thuộc tỉnh lỵ Kagoshima), ở phía bắc, tạo thành chuổi đảo (theo hình 1) mang tên Nansei (Nansei Shoto - Nam Tây chư đảo). Quần đảo Nam Tây trải dài từ phía nam đảo Kyūshū cho đến Đài Loan, phía tây là biển Hoa Đông (Mer de Chine Orientale), phía đông là biển Phi Luật Tân (Mer des Philippines), là một phần quan trọng trong « chuổi đảo thứ nhất » chặn Trung Quốc đi ra « biển lớn ». Tuy nhiên, mỗi khi nhắc quần đảo Nansei (Nam Tây) thì mọi người chỉ liên tưởng đến quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu).

 Nansei 1

Hình 1 : Quần đảo Nansei (Nam Tây) gồm hai quần đảo Ryukyu (Lưu Cầu) và Satsunan (Tát Nam), trải dài từ Đài Loan cho đến Kyūshū, tạo thành một hàng rào thiên nhiên chặn Trung Quốc ra « biển lớn ». Quần đảo Senkaku không ghi trên bản đồ vì quá nhỏ, chỉ mà một chấm nhỏ về phía bắc quần đảo Yaeyama. Nguồn Wikipédia.

Chuyến hành hương về Tổ đình Thập tháp và tu viện Nguyên Thiều

Huỳnh Ngọc Tuấn
Ngày mồng 3 tháng 6 âm lịch là Lễ úy nhật của đức Đệ tứ Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt nam thống nhất Thích Huyền Quang, tôi lên xe về Bình định lần này với hai mục đích:

1-    Tỏ lòng kính ngưỡng một bậc danh tăng đã hiến dâng cuộc đời mình cho đạo pháp và dân tộc.
2-    Để chiêm bái Tổ đình Thập tháp và Tu viện Nguyên Thiều.

Xe đến thị trấn Gò găng lúc 13h ,tôi đón xe ôm đến Tổ đình Thập Tháp. Con đường rẽ vào Tổ đình vắng vẻ, nhưng ở đầu lối rẽ vào có một quán nước, ở đó có rất nhiều những người đàn ông trẻ, có người đeo kính râm, có người cầm máy ảnh quan sát người ra vào Tổ đình. Với kinh nghiệm khá dày của mình tôi biết ngay họ là những nhân viên an ninh mặc thường phục.

Bước chân vào Tổ đình tôi cảm nhận một không khí an tỉnh và mát rượi bao quanh, tôi vào gặp một người đàn ông độ 50 tuổi đang làm công đức ở chùa, anh ta đón chào tôi với nụ cười niềm nở và thân mật như quen biết từ lâu, tôi thấy lòng nhẹ nhàng và bình yên khi đối diện với con người chân chất này, ở anh ta tôi nhận thấy một tấm lòng nhân hậu và khiêm cung, cái hoàn toàn thiếu vắng ở cuộc đời ngoài kia.

Anh ta chế một ấm trà để mời tôi.

Ngồi xuống một chiếc ghế thấp, duỗi dài đôi chân tê cứng vì đã ngồi mấy tiếng đồng hồ trên xe…trước mắt tôi là một tu viện hoành tráng, bề thế với những tàng cây xanh cao lớn và điện thờ thâm nghiêm. Chung quanh yên tỉnh và mát mẻ lạ thường, tôi rũ bỏ hết mọi bận bịu nặng nề của cuộc sống xô bồ ngoài kia, rũ bỏ cái nóng cháy da của buổi trưa tháng 6 và chẳng còn quan tâm gì về những đôi mắt thập thò theo dõi của mấy chú công an ở ngoài kia và cả trong sân của tu viện.

2012/07/24

Di hại của chế độ cộng sản về vật chất và tinh thần

Chu Chi Nam

Ngày hôm nay qua quyển Hắc thư của Chủ nghĩa cộng sản (Le Livre noire du Communisme), qua Tượng đài Kỷ niệm những Nạn nhân của chế độ cộng sản, qua Tòa án Quốc tế xử chế độ diệt chủng Pol Pot, người ta chỉ nghĩ đến những thiệt hại vật chất của chế độ cộng sản, mà người ta ít nghĩ đến những thiệt hại tinh thần.

Thực ra những thiệt hại tinh thần vô cùng lớn lao, không biết đến bao giờ chấm dứt, nhất là những nước còn sống dưới chế độ cộng sản như Trung Cộng, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba. Chúng ta hãy sơ lược về di hại cả vật chất, lẫn tinh thần của chế độ cộng sản, và cùng suy nghĩ làm thế nào để chấm dứt những di hại này.

I) Sơ lược di hại về vật chất

Di hại vật chất, đó là đi theo lời huấn dạy vừa sai lầm vừa không tưởng của Marx, nghĩ rằng người ta có thể bãi bõ quyền tư hữu, nhưng thực tế quyền tư hữu chỉ có thể chuyển nhượng, đảng cộng sản, sau khi dùng bạo lực cướp chính quyền, đã phát động phong trào "Đánh tư bản mại sản", tước hết quyền tư hữu của dân, rồi trao vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ.

Những cuộc đánh tư bản mại sản này làm cho đại đa số dân trở nên nghèo khổ, rồi chuyển nhượng tài sản của dân vào tay cán bộ, làm cho họ trở nên những ông tư bản đỏ giàu nứt đố đổ vách, như chúng ta chứng kiến ngày hôm nay.

Không những thế, nó còn làm cho cả trăm triệu người chết oan uổng, vì chính sách: "Trí phú hào, đào tận gốc, trốc tận rễ", giết chết giai tầng sĩ phu trí thức, xương sống của một xã hội, làm cho xã hội trở nên què quặt. Trong khi đó thì ruộng vườn nhà cửa bị sung công, tạo nên cảnh: "Cha chung không ai khóc, nhà chung không người chăm sóc, ruộng chung không ai cày".

ASEAN và Biển Đông: Những Chia Rẽ Ngày Càng Sâu Sắc

TTXVN


Ngày 16/7, Hội đồng nghiên cứu châu Á (NBR), một tổ chức nghiên cứu độc lập của Mỹ, đăng bài phỏng vấn Tiến sĩ Ian Storey, chuyên gia về Biển Đông của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á về những diễn biến gần đây liên quan tới Biển Đông. Sau đây là nội dung bài phỏng vấn:
Thảo luận về căng thẳng gia tăng trong tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông là một ưu tiên hàng đầu của các bộ trưởng ngoại giao tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) ở Campuchia từ ngày 11-12/7. Trong những tháng gần đây, khu vực đã chứng kiến sự tăng cường quân sự của các quốc gia có tranh chấp, sự bế tắc có tính đối đầu bằng hải quân giữa Trung Quốc và Việt Nam, việc Trung Quốc mời thầu thăm dò 9 lô dâu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và các vụ việc qua lại không thân thiện khác. Những sự cố này đã làm cho Biển Đông trở thành vấn đề nóng bỏng giữa các nước tranh chấp và mối lo ngại trong cộng đồng quốc tế.
NBR đã phỏng vấn Ian Storey về những hiểu biết của ông đối với các diễn biến tại Biển Đông, những chia rẽ giữa các thành viên ASEAN tại cuộc họp của các nhà lãnh đạo ASEAN gần đây ở Campuchia, và điều này có nghĩa gì cho sự ổn định khu vực.
NBR: Tranh cãi về Biển Đông đã leo thang như thế nào trong năm qua? Điều gì đã thúc đẩy sự leo thang?
Ian Storey: Căng thẳng ở Biển Đông có xu hướng mang tính chu kỳ. Trong sáu tháng đầu năm 2011 có sự gia tăng đột ngột, sau đó tương đối yên tĩnh trong nửa sau của năm. Trong sáu tháng đầu năm 2012, căng thẳng bắt đầu tăng trở lại, đạt đỉnh điểm hồi tháng Năm, tháng Sáu khi Trung Quốc và Philíppin cùng điều tàu tuần tra dân sự tới bãi đá ngầm Scarborough. Căng thẳng chính trị trong tranh chấp Biển Đông lên đến đỉnh điểm tại các cuộc họp của các nhà lãnh đạo ASEAN gần đây tại Phnôm Pênh. Những chia rẽ sâu sắc trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong vấn đề này đã được thấy rõ khi lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của tổ chức, các bộ trưởng ngoại giao không ra được một tuyên bố cuối cùng. Đồng thuận không đạt được vì Philíppin và Campuchia không đồng ý về việc sự cố bãi đá ngầm Scarborough nên được đề cập trong tuyên bố. Sự kiện ở Phnôm Pênh cho thấy rõ ràng vụ tranh chấp ở Biển Đông không những đang trở thành một vấn đề gây tranh cãi giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN có tranh chấp, mà còn làm sâu sắc thêm những chia rẽ trong chính ASEAN.

Nguồn Gốc Mê Tín

BCT 

Mê tín là cái bệnh những nhà trí thức đều chê trách, chánh quyền cũng chủ trương dẹp trừ mê tín. Thế mà bệnh mê tín mỗi ngày một tăng, càng lúc càng lan rộng. Thậm chí có những nước tự cho mình là văn minh nhất thế giới, mà dân chúng trong nước ấy vẫn còn mê tín. Ðó là tại sao?

Trước tiên chúng ta phải biết mê tín là thế nào? Mê tín là lòng tin mù quáng không thấy lẽ tật, không đúng chân lý. Ðơn cử một số thí dụ để chúng ta biết rõ. Như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn,tin coi tay xem tướng, tin cúng sao cúng hạn, tin thầy bùa thầy chú, tin cầu cúng tai qua nạn khỏi v.v... Những lối tin này không có lý luận, không đủ bằng chứng, không có lợi ích, nên gọi là mê tín.

Mê tín không phải là sự ngẫu nhiên phát sinh mà có nguồn gốc phát xuất cụ thể. Có hai thứ nguồn gốc mê tín:

Mê tín do tâm mong cầu - Con người khi mong cầu một điều gì mà quá khả năng mình thì dễ sinh mê tín. Ví như có một người muốn vay một số vốn lớn làm ăn, không biết việc làm ăn này sẽ kết quả tốt hay xấu. Tự nhiên lòng họ thấy băn khoăn lo lắng không biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói có ông đồng bà cốt nào đó linh ứng, nói quá khứ vị lai rất trúng, họ liền muốn tìm tới hỏi han. Chỉ tốn tiền quẻ có năm bảy trăm, mà biết việc làm cuả mình thành công hay thất bại thì an ổn biết mấy. Hoặc trên đường công danh có những học sinh, sinh viên đến kỳ thi cử, lo âu thân phận mình không biết thi đậu hay rớt. Nghe đồn Lăng này, Miếu kia linh hiển xin xăm bói quẻ sẽ báo đúng những điều sắp đến, các cô, các cậu không tin vào khả năng học hành của mình, nhất định đi đến xin xăm để hỏi thăm thần thánh xem thế nào.

2012/07/23

Trung Quốc và con đường đi đến « nước lớn »

Trương Nhân Tuấn

Trong cuốn « Đặng Tiểu Bình – từ lý luận đến thực tiễn » của tác giả Trần Tiên Khuê, (NXB Khoa-Học Xã Hội, quí II năm 2004), Đặng Tiểu Bình hoạch định tiến trình đi lên « nước lớn » của Trung quốc gồm qua nhiều giai đoạn « hòa bình », gọi chung là « Trung Quốc Hòa Bình Quật Khởi » hay « Trung Quốc Hòa Bình Quang Phục ». Ta thấy có nhiều thuật ngữ được họ Đặng sử dụng (và vẫn còn được hậu duệ sử dụng hôm nay) như : toàn cầu hóa, hợp tác, phát triển, đa cực hóa v.v.. Hai chữ « Hòa Bình » được sử dụng nhiều nhất và trong rất nhiều trường hợp.
Hai thuật ngữ « quật khởi » và « quang phục » cần phải hiểu rõ. Quật khởi 崛起 là một mình trổi dậy để vượt lên cao hơn cả (trong chữ quật, lấy ra bộ sơn, có bộ thi ở trên hai trái núi (sơn) chồng lại , cũng đọc là quật như quật cường). Quang phục光復, là khi bị thất bại mất hết cả, sau khôi phục lại giang sơn một cách rực rỡ thì gọi là quang phục. Thua mất nước, lấy lại được nước cũng gọi là quang phục. Hiểu như thế để thấy « quang phục » hay « quật khởi » bằng các phương tiện « hòa bình » không phải là việc đơn giản. Sau này, do bị chỉ trích, khẩu hiệu được đổi thành « Trung Quốc hòa bình phát triển ».
Mục tiêu mà họ Đặng chỉ ra, là khôi phục lại những gì Trung Quốc đã mất trong quá khứ. TQ trở thành đại quốc, vượt lên trên các đại quốc khác. Quan niệm về « đại quốc » của Đặng Tiểu Bình :
1/ kinh tế phát triển hàng đầu.
2/ chiến lược quân sự ở địa vị tiên phong.
3/ tư tưởng, văn hóa có thể ảnh hưởng đến toàn cầu.
4/ có ảnh hưởng chính trị ở cùng khắp thế giới.
Con đường đi lên « đại quốc » của Trung Quốc :
« TQ không theo đường bá quyền thực dân của Bồ Đào Nha hay Hòa Lan ở thế kỷ thứ 16 và 17. Con đường của Trung Quốc cũng không theo bá quyền lãnh đạo tự do kiểu Mỹ hay bá quyền xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, đặc biệt là sự thống nhất bá quyền quân sự với bá quyền hình thái ý thức ».
« Mục tiêu của Trung Quốc là trở thành một nước nêu gương phát triển toàn diện, một nước sáng lập tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa :
« Thứ nhất, làm một nước hòa bình và phát triển, không bành trướng xâm lược, không cướp đoạt đối với bên ngoài, dựa vào sức mình và lớn mạnh.
« Thứ hai, sáng lập tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa, sáng tạo văn hóa, sáng tạo văn minh nước lớn xã hội chủ nghĩa kiểu mới.
« Thứ ba, không yêu cầu người khác tuân theo y nguyên mô hình phát triển của mình …
« Thứ tư, Trung Quốc cần có cống hiến đáng kể đối với nhân loại, nhất là cần chủ trì công bằng, chủ trì chính nghĩa, ra sức giúp đỡ các nước vừa và nhỏ phát triển, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì. »

Nghị Quyết 36: Xin hãy Cảnh Giác!

Tác giả: Đỗ Thái Nhiên
Người đọc: Đặng Sơn Minh

LS Đỗ Thái Nhiên

Trên đấu trường quân sự, muốn đánh chiếm căn cứ A, nhiều khi vị chỉ huy chiến trường phải điều quân quấy nhiễu các căn cứ B, C và D, nhằm đánh lạc hướng phòng thủ của đối phương. Sau giai đoạn quấy nhiễu cần thiết, một cách bất ngờ, vị chỉ huy kia ra lệnh cho các đơn vị thuộc quyền tập trung toàn bộ hỏa lực, tấn công dứt điểm căn cứ A. Trong trường hợp này, các căn cứ B, C và D là DIỆN. Căn cứ A chính là ĐIỂM.

Ngày 26 tháng 03 năm 2004, Bộ Chính Trị Đảng CSVN đã ra "nghị quyết số 36-NQ/TƯ về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài". Nghị quyết này đề cập đến rất nhiều vấn đề khác nhau: nào là người Việt Nam ở nước ngoài chưa thực sự "gắn bó giúp đỡ lẫn nhau", nào là chính sách "đại đoàn kết" của đảng CSVN, nào là người Việt Nam ở nước ngoài là "một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam", nào là và nào là… Giữa cảnh rừng "nào là" kia đâu là DIỆN, đâu là ĐIỂM? Đi tìm ĐIỂM trong trường hợp này tức là chúng ta cần cẩn thận khảo sát toàn bộ nội dung của nghị quyết 36.

Nghị quyết 36 được chia ra thành bốn phần rõ rệt:
 
PHẦN THỨ NHẤT: "Tình hình và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua" (nguyên văn chữ dùng của CSVN)

Nghị quyết 36 ghi nhận: "Hiện nay có khoảng 2,7 trịêu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước công nghịêp phát triển". Nghị quyết 36 viết tiếp rằng: người Việt Nam ở nước ngoài "có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế – chính trị – xã hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau tới mối quan hệ giữa các nước đó với Việt Nam" và rằng: "một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan hệ với các cơ sở kinh tế khoa học ở nước sở tại".

“Trận chiến” trên Diễn Ðàn


Đỗ Thái Nhiên

Trên mục diễn đàn của báo Người Việt số ra ngày Chủ Nhật 08 tháng 7, 2012 đột nhiên xuất hiện một bài viết ký tên Sơn Hào. Bài này hết lời ca tụng biến cố 30 tháng 4, 1975 bằng ngôn ngữ ấu trĩ, thô thiển, bóp méo sự thực của lịch sử.

Lập tức trận chiến bùng nổ: Bên này là đông đảo độc giả yêu nước, yêu lẽ phải, căm ghét chế độ bạo quyền Cộng Sản. Bên kia là Ban Lãnh Ðạo báo Người Việt. Thay vì đấm đá lẫn nhau, trận chiến vừa kể diễn ra hết sức đặc biệt: Ðộc giả tấn công Người Việt bằng nhiều lời tiếng khác biệt: Khi thân tình, khi căm ghét; khi khuyên lơn, khi mắng mỏ, khi văn vẻ, khi cộc cằn; khi nhẹ nhàng độ lượng, khi "căm thù muôn năm"…

Ngược lại, Ban Lãnh Ðạo báo Người Việt đã đáp lễ độc giả qua cung cách tôn kính không thể tôn kính hơn, chân thành không thể chân thành hơn. Tất cả những tôn kính và chân thành kia chỉ để phát âm thật rõ ràng hai chữ: "Xin Lỗi".

Có “bảo kê” tại các phòng khám Trung Quốc không?




  Văn Quang - Từ Sài Gòn, ngày 20.7.2012

Trong tuần này, chuyện một phụ nữ tử vong bất thường do các ông được gọi là Bác sĩ Trung Quốc (BS TQ) tại phòng khám (PK) Maria ở ngay giữa thủ đô Hà Nội đã làm dư luận tại VN càng thêm sôi sục. Vấn đề được đặt ra không phải chỉ là "kiểm tra, xử phạt" các PK mà là một phạm vị lớn hơn: "Ai sẽ chịu trách nhiệm về những cái chết này?". Người chủ phòng khám và các ông BS TQ? Đó là việc tất nhiên các cơ quan điều tra phải làm.

Người thân và người dân bất bình bao vây phòng khám Maria

Nhưng còn người chịu trách nhiệm cao hơn trước nhân dân là ai? Cơ quan nào, nhân viên nào có trách nhiệm trực tiếp đối với những Phòng Khám bệnh này? Ai đã cho phép các phòng khám mọc lên, ai đã cho phép và kiểm tra các ông BS TQ vào VN hành nghề? Tại sao những phòng khám (PK) ấy có thể an nhiên tự tại từ nhiều năm nay?

Vietnam, Anti-China, 22 Jul 2012, Image News by Reuters

Vietnam, Anti-China, 22 Jul 2012, Image News by Reuters

2012/07/22

Khi Trung Quốc nói đến cải tổ, nỗi sợ bất trắc tăng lên


Michael Wines

Tháng 10 vừa qua, một nhóm nhân vật "nặng ký" tụ họp ở một đại yến trong toà nhà chọc trời cao nhất Bắc Kinh.  Con của người kế nhiệm Mao Trạch Đông[1] có mặt ở đó, cũng như con gái của vị chỉ huy quân sự thứ hai trong gần 3 thập kỷ, cùng với người chị một cha khác mẹ với chủ tịch sắp đến[2] của Trung Quốc.

Chương Lập Phàm (Zhang Lifan), một người có mặt hôm ấy, thuật lại: " Bạn chỉ cần nhìn vào số lượng những xe ôtô xịn và biển số số thấp"

Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên hơn cả là lý do của cuộc họp này. Một nhóm nhỏ của con cái những tinh hoa khai quốc công thần của Trung Quốc – nhóm mong muốn có những cải tổ chính trị và kinh tế sâu rộng hơn – đã đến dó để bàn cãi về sự cần thiết của một định hướng mới cho thế hệ kế tiếp của lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, thế hệ mà theo lich trình (mười năm một lần) sẽ được trao quyền năm nay.  Nhiều người trong nhóm này đã gặp nhau một lần hồi tháng tám trước đó, và sẽ gặp lại vào tháng hai.

Những cuộc họp tư riêng này là một dấu hiệu cho thấy ngay cả một số người trong giới tinh hoa cũng lo lắng về con đường mà Đảng Cộng sản đang vạch ra cho tương lai Trung Quốc.  Và đối với những người biện hộ cho thay đổi chính trị, chúng cho hi vọng là những đảng viên có ảnh hưởng cũng ủng hộ ý cho rằng một nước Trung Quốc tương lai nên cho công dân của họ nhiều quyền hơn trong việc chọn lựa lãnh đạo và tìm bồi thường cho những sự kêu ca của dân chúng, hai than phiền dài hạn về hệ thống hiện nay.