Đào Văn Bình
Nghe là sự vận hành tự nhiên của một cơ thể bình thường. Thế
nhưng sự vận hành này tuy tự nhiên nhưng không phải hoàn toàn phóng
túng, bừa bãi, vô tổ chức…mà có chọn lọc. Chúng ta có thể ví lỗ tai
(nhĩ căn) của chúng ta giống như một chú lính. Khi nhận được một tín
hiệu, một thông điệp, một tin tức nào…thì chú vội vàng báo ngay cho chủ
tướng của mình - không ai khác hơn là chính Ta. Mà cái Ta này chính là
cái Tôi hay cái Ngã do Nhãn (Mắt), Nhĩ (Tai), Tị (Mũi), Thiệt (Lưỡi),
Thân, Ý (Ý thức) kết hợp lại mà thành. Khi một "tin tức" tốt được "báo cáo"
thì vị chủ nhân hân hoan nói, "Được, chú tiếp tục nói đi." Lúc đó vị
"chủ tướng" tức cái Ngã, lim rim tận hưởng khóai cảm của những lời tán
tụng, những lời du dương, những lời ngon ngọt gửi tới. Thật sướng lỗ
tai! Thế nhưng khi một lời nói khó chịu, một lời nói bất ưng được báo
vào thì ông tướng lập tức nổi giận, quát tháo ầm ĩ "Cút đi! Ta không
muốn nghe nữa!" Thật tội nghiệp cho chú lính. Chú chạy biến ra ngòai,
ngồi xuống rầu rĩ bịt kín lỗ tại lại. Trong khi đó thì "ông tướng" có
thể vẫn tiếp tục nổi trận lôi đình, chửi bới rân trời và chú Khẩu
(Miệng) bị vạ lây.
Nghe lời nói ngon ngọt thì dễ, nhưng nghe, hoặc lắng nghe lời nói
nghịch nhĩ thì thật khó khăn. Đối với chúng sinh bình thường, sự lắng
nghe đã khó, còn đối với những nhân vật gọi là quyền cao chức trọng,
giầu có, tăm tiếng, thế lực, nổi tiếng v.v..thì sự khó khăn đó còn tăng
gấp bội, bởi vì cái Tôi, cái Ngã của những vị này rất lớn. Nhìn vào
lịch sử Trung Hoa, chúng ta thấy biết bao trung thần, nghĩa sĩ đã chết
vì những lời tâu trình nghịch ý vua. Khá hơn là những ông vua, tuy
không ra lệnh chém đầu nhưng lại bỏ tù, hoặc tước hết phẩm trật, đuổi
về quê những ông quan dại dột tâu lên những điều mà nhà vua không muốn
nghe. Còn tại triều đình Âu Châu, các ông vua Tây Phương tuy không đến
nỗi ác độc như vậy, nhưng lại có một lối "bịt tai" một cách rất "thông
minh". Các ông vua này nuôi mấy anh hề, chạy lăng xăng trước ngai
vàng. Khi có quan đại thần nào tâu trình điều gì thì mấy anh hề làm trò
khiến vua cười sặc sụa. Và dĩ nhiên như thế vua có thể "đổ thừa" là
"Trẫm có nghe gì đâu!". Quan đại thần lúc đó chỉ có nước lạy tạ mà lui
ra. Còn tại Hoa Kỳ, một quốc gia được coi như triệt để bảo vệ quyền tự
do ngôn luận và mọi người thảo luận trong tình thần ôn hòa, tương kính.
Tuy nhiên không phải tất cả đều như vậy. Quý vị nào theo dõi các buổi
hội luận, phát biểu ý kiến trên các đài truyền hình lớn như Fox News,
CNN…chắc đã thấy rất nhiều trường hợp, các người tranh luận không thèm
lắng nghe người đối diện mình nói, hoặc chờ cho đối thủ của mình nói
xong. Cả hai người đều tranh nhau nói, khiến khán giả chẳng biết ông
nói gì, bà nói gì, và dĩ nhiên chỉ có nước lắc đầu cười trừ. Ở đây sự
xung đột ý kiến lên tới mức trầm trọng khiến người ta không thèm lắng
nghe nhau mà chỉ muốn phát biểu ý kiến của mình.
Thế nhưng trong số vô lượng chúng sinh đã và đang ngụp lặn, luân hồi
trong Thế Giới Ta Bà này, có một nhân vật rất lạ lùng, đó là Ngài Quán
Thế Âm Bồ Tát đã phát hạnh nguyện lắng nghe; lắng nghe sự
khổ đau cũng như nỗi bất ưng của muôn lọai chúng sinh mà đến cứu giúp.
Mà ngài đã thể hiện hạnh nguyện đó từ vô lượng kiếp trước. Do đâu mà
chúng ta biết được hạnh nguyện của vị đại Bồ Tát hi hữu này?
Trong pháp hội tại Núi Kỳ Xà Quật của Thành Vương Xá, Ngài Vô Tận Ý Bồ
Tát, từ trong đại chúng đã đứng lên thưa hỏi Phật như sau: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?" Phật đã bảo ngài Vô Tận Ý Bồ-tát như sau: "Thiện
nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ
não, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một lòng xưng danh, Quán Thế Âm Bồ-tát
tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát" (Kinh Pháp Hoa)
Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát tương truyền đã và thường thị hiện thành hình
tướng người nữ với tướng mạo thật đoan nghiêm, hiền từ, được gọi một
cách thân thương và giản dị là Phật Bà Quan Âm để cứu độ bất cứ ai lên tiếng kêu khổ và niệm danh hiệu ngài. Câu niệm đầy đủ nhất là "Nam Mô Tầm Thanh Cứu Khổ, Cứu Nạn Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát!".
Do đó mà hình tượng của Phật Bà Quan Âm đã được dựng lên khắp nơi,
được kính ngưỡng, thờ phượng. Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta niệm
danh hiệu ngài, hoặc trông lên tượng Phật Bà Quan Âm, chúng ta cảm thấy
bình an, được cảm thông, thấy tin tưởng và không còn sợ hãi. Mới đây
nhất một pho tượng Phật Bà Quan Âm, 17 tầng, cao 69.7 m, được xem là tượng Phật cao nhất Việt Nam đã được dựng và khánh thành tại Chùa Bãi Bụt hay Chùa Linh Ứng nhìn xuống Bãi Biển Sơn Trà, Đà Nẵng, không ngòai mục đích tôn kính biểu tượng của Từ Bi, Cứu Khổ, Hạnh Nguyện Lắng Nghe và Khát Vọng Bình An của mọi người. Mẹ
Hiền Quan Âm không tạo ra dông bão, lụt lội, động đất, cuồng phong,
bệnh dịch, chiến tranh, chết chóc để lòai người sợ hãi mà van vái cầu
xin. Hình ảnh đẹp của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát có thể tìm thấy ngay trong
cuộc sống này ở nơi các bà mẹ hiền thương con vô bờ bến, không bao
giờ giận hờn con, không bao giờ làm khổ con mà chỉ biết lo cho con.
Bạn ơi!
- Bạn
không thể phát khởi Tâm Đại Bi, tức lòng xót thương người nếu bạn
không lắng nghe những lời than van, kêu khổ của người khác.
- Bạn không thể chia xẻ nếu như bạn không nghe được nỗi lòng thầm kín, nỗi oan ức của người khác.
- Bạn không thể an ủi người khác nếu bạn bịt kín lỗ tai lại.
- Hãy
để cho người khác trút hết nỗi niềm tâm sự và bạn là người lắng nghe.
Chỉ cần lắng nghe, lắng nghe một cách cảm thông và hiểu biết, thì nỗi
khổ của người đối diện đã vơi đi rất nhiều.
- Ngày nay các nhà tâm lý trị liệu, các nhà cố vấn tâm lý chỉ là những người biết lắng nghe bạn trút hết nỗi lòng, những ý nghĩ thầm kín mà bạn không biết tâm sự cùng ai.
- Thật vĩ đại và nhiệm màu thay hình ảnh của Phật Bà Quan Âm chỉ vì ngài là bậc biết lắng nghe.
Để tìm hiểu thêm về sự tuyệt vời của hạnh nguyện lắng nghe, chúng ta
kiểm điểm lại xem trong quá khứ đã bao lần chúng ta im lặng để lắng
nghe lời kêu than của người khác? Phải chăng lúc đó chúng ta thấy chúng
ta thật bao dung cởi mở? Phải chăng lúc đó cử chỉ và ngôn ngữ của
chúng ta thật dịu dàng? Phải chăng lúc đó trái tim chúng ta không dung
chứa gì, ngòai sự cảm thông? Chúng ta đã hiển lộ Phật tánh lúc nào mà
chúng ta không hay. Chính vì thế mà bạn ơi, hãy là một người biết lắng
nghe, Be a good listener!
- Trong những đêm khuya thanh vắng, hãy im lặng để lắng nghe tiếng con cú đang gọi bạn.
- Tiếng vạc kêu sương,
- Tiếng con cò lặn lội bờ sông,
- Tiếng côn trùng rên rỉ,
- Tiếng dế nỉ non,
- Tiếng
cóc, nhái, ễnh ương âm vang một hợp tấu tuy đơn điệu đối với chúng ta,
nhưng vô cùng quyến rũ đối với loài lưỡng cư để mời gọi con mái,
- Tiếng mưa rơi trên mái ngói hay trên những mái nhà dột nát,
- Tiếng bà mẹ ru con,
- Tiếng than van của những người nghèo khó trong những khu lao động,
- Tiếng
nhạc khích động vọng ra từ những phòng trà ca vũ của những người nhiều
tiền lắm của tìm thú vui hoặc của những người cô đơn phải tìm một nơi
giải trí cho vơi sầu muộn,
- Và cả tiếng cô ca sĩ đang cố ru hồn người bằng những cung bậc nỉ non, da diết,
- Tiếng nhạc Rock, nhạc Pop, nhạc Rap xập xình,
- Trong
khi đó tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng hiền từ của ni cô đang ngồi tụng
Kinh Cứu Khổ nghe rõ giữa canh khuya để cho thấy tình thương của nhân
lọai vẫn còn đây,
- Tiếng đại bác từ chiến trường vọng về cho thấy nỗi gian nan của người chiến sĩ,
- Tiếng lá cây xào xạc theo ngọn gió đong đưa,
- Tiếng sóng vỗ rì rào như tiếng lòng của biển,
- Rồi
bất thần tiếng xe cứu thương rú lên như muốn xé tan màn đêm u tịch để
cảnh báo cho mọi người đừng quên con người từng giây từng phút bị chi
phối bởi luật Sinh, Lão, Bệnh, Tử,
- Và cả nhịp đập của trái tim mình.
Trong không gian bao la và tịch mịch đó, tất cả đều bình đẳng, tự do
hiển lộ trong thế giới trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm. Lúc đó
mọi tư tưởng đều vắng bặt, chỉ còn sự quán chiếu, cảm nhận và cảm
thông. Phải chăng trong thế giới này chúng ta không cần chân lý mà cần
sự cảm thông? Ít ra là trong giây phút này đây. Lắng nghe là một sự cảm thông kỳ diệu nhất.
- Chư Phật trong hằng hà sa số thế giới đều lắng nghe lời diễn nói của chư Phật ở thế giới khác.
- Trong nhiều pháp hội có khi Đức Phật chỉ lắng nghe những vị Bồ Tát rồi ấn chứng.
- Trong nhiều pháp hội, thính chúng chỉ lắng nghe Phật nói không thôi mà cũng đắc quả.
- Trong
khi các vị thần chỉ biết ra oai và trừng phạt thì các Bồ Tát, A La Hán,
Bích Chi Phật và hàng Đại Sĩ trong vô lượng kiếp lại biết lắng nghe.
Trong bối cảnh đầy bạo lực và có nguy cơ hủy diệt của thế giới
ngày hôm nay, Đạo Phật đang trở thành ngọn đuốc lương tri cho nhân
lọai. Mặc dù Đạo Phật chưa ảnh hưởng tới những thế lực chỉ muốn dùng
sức mạnh để giải quyết những vấn đề của con người, nhưng Đạo Phật đang
từ từ thấm dần vào hàng ngũ trí thức khắp mọi nơi. Là Phật tử chúng ta
hiểu rằng sinh mệnh của Đạo Phật nằm ở hai chữ Từ Bi. Từ Bi là xót
thương, là cứu độ, là không làm người khác khổ, là cảm thông và biết
lắng nghe. Khi mọi người không còn muốn nghe người khác nói nữa thì đó
là lúc mà sự ghét bỏ, nghi kỵ, hận thù, xa cách lớn dần lên. Không biết
lắng nghe, hoặc không thèm lắng nghe người khác cũng là một hình thái
xây đắp hoặc bảo vệ một ngục tù tư tưởng hay một "Tử Cấm Thành" của cái
Tôi. Sự vĩ đại của Đạo Phật hay của Đức Phật là sự giải phóng trí tuệ
và "viễn ly mọi điên đảo, mộng tưởng" (*). Chính những điên đảo mộng
tưởng này đã đưa tới vọng động làm khổ mình và làm khổ nhân lọai.
Bạn ơi, trong bao nhiêu điều có thể nói về Đạo Phật, chỉ xin bạn nhớ cho "Đạo Phật là đạo của những người biết lắng nghe."
Đào Văn Bình
(Tháng 9 năm 2554.PL- 2010. TL)
(*) Bát Nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh
Khai Dân Trí | Đào Văn Bình |
No comments:
Post a Comment