Trương Nhân Tuấn
Trong cuốn « Đặng Tiểu Bình – từ lý luận đến thực tiễn » của tác giả Trần Tiên Khuê, (NXB Khoa-Học Xã Hội, quí II năm 2004), Đặng
Tiểu Bình hoạch định tiến trình đi lên « nước lớn » của Trung quốc gồm
qua nhiều giai đoạn « hòa bình », gọi chung là « Trung Quốc Hòa Bình
Quật Khởi » hay « Trung Quốc Hòa Bình Quang Phục ». Ta thấy có nhiều
thuật ngữ được họ Đặng sử dụng (và vẫn còn được hậu duệ sử dụng hôm nay)
như : toàn cầu hóa, hợp tác, phát triển, đa cực hóa v.v.. Hai chữ « Hòa
Bình » được sử dụng nhiều nhất và trong rất nhiều trường hợp.
Hai thuật ngữ « quật khởi » và « quang phục » cần phải hiểu rõ. Quật khởi 崛起 là một mình trổi dậy để vượt lên cao hơn cả (trong chữ quật, lấy ra bộ sơn, có bộ thi ở trên hai trái núi (sơn) chồng lại 屈, cũng đọc là quật như quật cường). Quang phục光復,
là khi bị thất bại mất hết cả, sau khôi phục lại giang sơn một cách rực
rỡ thì gọi là quang phục. Thua mất nước, lấy lại được nước cũng gọi là
quang phục. Hiểu như thế để thấy « quang phục » hay « quật khởi » bằng
các phương tiện « hòa bình » không phải là việc đơn giản. Sau này, do bị
chỉ trích, khẩu hiệu được đổi thành « Trung Quốc hòa bình phát triển ».
Mục
tiêu mà họ Đặng chỉ ra, là khôi phục lại những gì Trung Quốc đã mất
trong quá khứ. TQ trở thành đại quốc, vượt lên trên các đại quốc khác.
Quan niệm về « đại quốc » của Đặng Tiểu Bình :
1/ kinh tế phát triển hàng đầu.
2/ chiến lược quân sự ở địa vị tiên phong.
3/ tư tưởng, văn hóa có thể ảnh hưởng đến toàn cầu.
4/ có ảnh hưởng chính trị ở cùng khắp thế giới.
Con đường đi lên « đại quốc » của Trung Quốc :
«
TQ không theo đường bá quyền thực dân của Bồ Đào Nha hay Hòa Lan ở thế
kỷ thứ 16 và 17. Con đường của Trung Quốc cũng không theo bá quyền lãnh
đạo tự do kiểu Mỹ hay bá quyền xã hội chủ nghĩa của Liên Xô, đặc biệt là
sự thống nhất bá quyền quân sự với bá quyền hình thái ý thức ».
«
Mục tiêu của Trung Quốc là trở thành một nước nêu gương phát triển toàn
diện, một nước sáng lập tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa :
«
Thứ nhất, làm một nước hòa bình và phát triển, không bành trướng xâm
lược, không cướp đoạt đối với bên ngoài, dựa vào sức mình và lớn mạnh.
« Thứ hai, sáng lập tự do dân chủ xã hội chủ nghĩa, sáng tạo văn hóa, sáng tạo văn minh nước lớn xã hội chủ nghĩa kiểu mới.
« Thứ ba, không yêu cầu người khác tuân theo y nguyên mô hình phát triển của mình …
«
Thứ tư, Trung Quốc cần có cống hiến đáng kể đối với nhân loại, nhất là
cần chủ trì công bằng, chủ trì chính nghĩa, ra sức giúp đỡ các nước vừa
và nhỏ phát triển, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì. »
Đến hôm nay nhìn lại, các tiêu chuẩn về nước lớn của họ Đặng, ta thấy phần nào viễn kiến của ông này :
1/ Về kinh tế, Đặng nhận định TQ có nhiều tiềm năng. Hôm nay TQ đã đạt vị trí thứ hai, chỉ sau Hoa Kỳ.
2/
Về quân sự, dĩ nhiên không thể so sánh với Hoa Kỳ nhưng TQ đã khẳng
định là cường quốc không đối thủ ở khu vực. Nhưng họ Đặng nhận định : xã
hội Trung Quốc là một xã hội ổn định, Trung Quốc là một nước Xã Hội Chủ
Nghĩa lớn nhất, có thể huy động và tập trung sức mạnh toàn dân để vượt
qua mọi thử thách.
3/
Về văn hóa, họ Đặng có cái nhìn lạc quan là TQ có một nền văn minh lâu
đời : « Nho học của Trung Quốc là một nền văn hóa ưu tú của loài người,
có ảnh hưởng ngang với ba tôn giáo lớn là Cơ Đốc giáo, Hồi Giáo và Phật
Giáo, còn là cơ sở văn hóa của quan niệm giá trị Đông Á có ảnh hưởng
trên thế giới ». Hiện nay nhiều cơ sở văn hóa như các viện Khổng Tử được
mở ra ở nhiều nước trên thế giới, nhưng kết quả thì chưa kiểm nghiệm
được.
4/
Về chính trị, họ Đặng cho rằng « Trung Quốc đang là nước đang phát
triển lớn nhất, là nước thành công nhất chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
sang nền kinh tế thị trường ». Đó cũng là tiền đề cho việc xây dựng
« sức mạnh mềm của TQ ». Ta thấy hiện nay đông đảo các nước Châu Phi,
một số nước Trung Đông, một số nước trong vùng Đông Nam Á… đều nằm trong
vòng ảnh hưởng của TQ. Việc Kampuchia mới đây cản trở ASEAN trong việc
ra tuyên bố chung cho thấy nước này đã hoàn toàn bị TQ khuất phục.
Tuy
nhiên, tiêu chí trên lý thuyết của Đặng Tiểu Bình về một « nước lớn »
với hành động trên thực tế hôm nay khác xa một trời một vực, nhứt là ở
hai điều 1 và 4 :
1/
Là một nước hòa bình và phát triển, không bành trướng xâm lược, không
cướp đoạt đối với bên ngoài, dựa vào sức mình và lớn mạnh. 4/
Trung Quốc cần có cống hiến đáng kể đối với nhân loại, nhất là cần chủ
trì công bằng, chủ trì chính nghĩa, ra sức giúp đỡ các nước vừa và nhỏ
phát triển, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì.
Các tiêu chí ở hai điểm này, lời nói với việc làm tương phản rõ rệt.
Quan niệm về « hòa bình » của TQ thực ra là chiến lược « muốn hòa bình phải chuẩn bị
chiến tranh ». Xét về ngân sách quốc phòng của TQ ta có thể khẳng định
về điều này. Từ thập niên 80 đến nay, liên tục trên 30 năm, TQ đã gia
tăng ngân -sách quốc phòng bằng những con số chóng mặt. Từ 6,6 tỉ đô la
năm 1992 lên đến 11 tỉ năm 1998 và 20 tỉ năm 2002. Trong 10 năm tăng
trên 300%. Năm 2011 là 120 tỉ đô-la. Trong 9 năm tăng 600%. Dự trù năm
2015 là 230 tỉ đô-la. Đây là những con số chính thức do nhà nước Trung
Quốc đưa ra. Thực tế thì con số này lớn hơn rất nhiều, khoản 5% PIB. Các
giới chức có thẩm quyền Hoa Kỳ, thời Condoleeza Rice trước kia hay
Hilary Clinton hiện nay, đều luôn đặt câu hỏi về lý do của việc tăng gia
ngân sách quốc phòng này. Đây là những con số khổng lồ, chúng tố cáo
Trung Quốc đang chuẩn bị chiến tranh. Nhưng chuẩn bị chiến tranh với
ai ?
« Chiến
tranh » mà TQ đang chuẩn bị là để « quang phục » lại những gì mà đế
quốc Trung Hoa đã mất trong quá khứ. Nó có thể là những lãnh thổ, những
vùng ảnh hưởng của TQ đã mất từ thế kỷ 19.
Những vùng mà TQ gọi là « bị mất » thực ra có nhiều, nhưng các điểm đáng chú ý hiện nay có thể kể :
Trên
biển : Tranh chấp với VN và Phi về biển Đông và chủ quyền hai quần đảo
HS và TS. Tranh chấp với Nhật về chủ quyền quần đảo Senkaku (Điếu Ngư).
Vấn đề thống nhứt Đài Loan. Lên tiếng đòi chủ quyền các đảo Sulu trong
biển Celebès (thuộc Phi). Lên tiếng dành quần đảo Natuna với Nam Dương
(thập niên 70).
Tranh
chấp biên giới trên đất liền : Với các nước Triều Tiên, Nga, Mông Cổ,
các nước Trung Á như Kazakhstan, Kirghizistan, Tadjikistan, các nước
Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Miến Điện, Lào và Việt Nam.
Phương
pháp giải quyết các tranh chấp này ta thấy : TQ nhượng bộ các nước mà
TQ cần như Nga, các nước Trung Á, các « phiên bang » như Miến Điện và
Lào. Nhưng TQ cứng rắn với các nước Việt Nam, Phi, Nhật, Ấn Độ.
Đối
với Nga, TQ nhượng hàng triệu cây số vuông, những vùng đất đã nhượng
cho Nga dưới thời Nga hoàng qua các hiệp ước bất bình đẳng. TQ cũng
nhượng cho Kazakhstan khoảng 800.000 km² đất vì TQ cần dầu khí ở nước
này. TQ cũng tạo dễ dàng cho Miến Điện trong việc phân định lại biên
giới (thập niên 60) và Lào. Hai đường biên giới do Anh (Miến Điện) và
Pháp (Lào) phân định vào cuối thế kỷ 19 vẫn được các bên nhìn nhận và áp
dụng cho hiệp ước mới.
Như
thế, TQ chuẩn bị chiến tranh với VN, Phi, Nhật, trong chừng mực Ấn Độ
và dĩ nhiên Đài Loan. Những diễn biến liên tục xảy ra gần đây trên biển
Đông và vùng biển Hoa Đông, và các tiêu điểm về hiện đại hóa quân đội,
ta thấy mục tiêu của TQ rõ ràng là chuẩn bị chiến tranh (chiến tranh cục
bộ) để giải quyết các tranh chấp trên biển.
Vấn
đề Đài Loan cực kỳ quan trọng cho Trung Quốc. Đối với đảng lãnh đạo, đó
là thánh thức lớn, đảng này có trách nhiệm phải thống nhứt đất nước để
khẳng định tính chính thống. Đài Loan cũng có vai trò cực kỳ quan trọng
cho TQ về kinh tế. Nếu không nói quá, Đài Loan là động cơ của phát triển
kinh tế của TQ hiện nay. Đầu tư ở các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến là
do tài phiệt Đài Loan đầu tư. Ngoài ra, về địa lý chiến lược, Đài Loan
giữ vai trò cửa ngõ để hải quân TQ đi ra biển xanh. Đây là "không gian
sinh tồn – espace vitale" của Trung Quốc. Bằng mọi giá Trung Quốc phải
lấy lại Đài Loan – hoặc đặt đảo này dưới vòng kiểm soát của mình – nếu
không Trung Quốc sẽ không bao giờ trở thành một cường quốc thực sự đúng ý
nghĩa.
Về
mặt địa lý, phía Đông, Trung Quốc bị kềm hãm trong vùng nước cạn của
Đông Hải (Mer de Chine Orientale) bởi bức trường thành thiên nhiên là
quần đảo Nansei (Nam Tây) của Nhật, chạy dài từ cực Nam của đảo Kyushu
cho đến phía Bắc đảo Đài Loan. Phía Đông và Đông Nam, Trung Quốc bị ngăn
chận bởi Đài Loan và Phi với khoảng giữa là hai quần đảo Batan và
Babuyan của Phi. Phía Nam, tức biển Đông theo tên gọi của Việt Nam, cũng
là vùng biển cạn, trong đó còn có khoảng 130 đảo san hô rải rác trong
một vùng 100km chiều ngang và 200km chiều dài, bao bọc bởi các nước Việt
Nam, Phi, Nam Dương, Mã Lai và Brunei. Trong các vùng biển cạn, cận bờ
và có nơi đầy cạm bẫy đá và san hô, tàu ngầm của Trung Quốc không thể
hoạt động hữu hiệu. Muốn "hùng phong đại quốc" tàu ngầm chiến lược của
Trung Quốc phải ra vùng biển sâu và rộng của Thái Bình Dương, có khả
năng tranh bá với các chiến hạm của Hoa Kỳ hiện đang làm chủ đại dương
này (và Đại Tây Duong). Việc này chỉ có thể thực hiện nếu Đài Loan và
vùng biển ở đây nằm dưới kiểm soát của Trung Quốc.
Trong
khi đó, đà phát triển của TQ, tốc độ trung bình 10% /năm, khiến TQ trở
thành một nước « đói » năng lượng. Vùng biển Đông, các vùng trầm tích
chạy dọc theo bờ biển VN, các bãi Tư Chính, Vũng Mây, Phúc Tần, Phúc
Nguyên… trên thềm lục địa VN, hay vùng bãi Cỏ Rong thuộc quần đảo TS,
hay là vùng thềm lục địa chung quanh quần đảo Điếu Ngư, là những vùng có
thể có trữ lượng dầu khí rất lớn. Mặt khác, các nơi đó đều là các ngư
trường quan trọng trên thế giới. Do đó, những vùng biền (và đảo) ở các
khu vực đó nằm trong tầm nhắm của TQ. Các khu vực này trong thời gian
gần đây trở nên cực kỳ căng thẳng do những khuấy động của TQ. Nguy cơ
chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Quan
niệm « hùng phong đại quốc » của họ Đặng « nói vậy mà không phải vậy ».
Phải đọc họ Đặng ở giữa hai hàng chữ. Phải hiểu tiêu chí họ Đặng trên
các nền tảng lý thuyết về địa lý và chiến lược. TQ « Là một nước hòa
bình và phát triển, không bành trướng xâm lược, không cướp đoạt đối với
bên ngoài, dựa vào sức mình và lớn mạnh » chỉ là chót lưỡi đầu môi. Hành
động cho đấu thầu 9 lô trên thềm lục địa VN là hành vi rõ ràng là
« bành trướng, xâm lược, cướp đoạt ».
Vì
vậy, thân phận láng giềng với « 16 chữ vàng » hiệu đính, và « 4 tốt »
đi theo, quan hệ VN và TQ cũng như hai bên chơi cờ mà phía TQ luôn ăn
gian, một lần đi hai ba nước. Chữ « vàng » rồi sẽ là vàng vọt hay vàng
dẻo. Bốn tốt sẽ là 4 con tốt. Nhưng chơi như vậy thì chơi với ai ? Con
đường đi lên nước lớn của TQ chắn chắn sẽ gặp trở ngại. Cá lớn luôn nuốt
cá bé. Tuy nhiên, VN nhỏ, nhưng là con cá fugu, con cá mập TQ không dễ
dàng mà ăn tươi nuốt sống nó./.
Trương Nhân Tuấn
No comments:
Post a Comment